Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Rèn kĩ năng cảm thụ trong thế đối sánh văn học

RÈN KỸ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC TRONG THẾ ĐỐI SÁNH
CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN

           

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong rất nhiều mục tiêu của môn Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông, mục tiêu cơ bản  là giúp học sinh có khả năng đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Để đạt được mục tiêu ấy, rèn luyện kỹ năng làm văn cho học sinh là một khâu rất quan trọng. Đó là là một quá trình đầy lao tâm khổ tứ, nó cần công phu, tâm huyết và sự kiên trì bền bỉ của các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy.
Để  giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn chương, nghĩa là giúp các em có được một tư duy tinh nhạy, một tâm hồn xúc cảm dạt dào, và hơn hết là một năng lực cảm thụ sắc sảo với khả năng khái quát, tổng hợp vấn đề sâu sắc và khả năng trình bày vấn đề một cách sáng rõ, mạch lạc, hấp dẫn, theo suy nghĩ của chúng tôi, trong rất nhiều kiểu, dạng đề nghị luận văn học, kiểu đề phân tích văn học trong thế đối sánh là kiểu đề có thể đáp ứng tốt những  năng lực này.

NỘI DUNG

I.                   MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.     Khái niệm:
Trong Tiếng Việt, các khái niệm So sánh, đối sánh, đối chiếu có một số nét nghĩa tương đồng. Có lẽ vì vậy, cách sử dụng những thuật ngữ này nhiều khi có sự lẫn lộn.
Ở đây, chúng tôi không bàn về So sánh như một mĩ từ pháp  (Biện pháp tu từ so sánh, học sinh được học trong chương trình Ngữ văn 8) hay một thao tác lập luận thường gặp trong văn nghị luận (Thao tác lập luận so sánh – Ngữ Văn 11) mà chúng tôi sẽ bàn về kiểu bài cảm thụ văn học trong quan hệ đối sánh.
Từ điển Tiếng Việt (NXB KHXH) đã định nghĩa:
-         Đối sánh (động từ):  so sánh giữa đôi bên
-         Đối chiếu: so sánh cái này với cái kia để từ những chỗ giống và khác nhau mà biết rõ hơn.
Như vậy kiểu bài cảm thụ văn học trong quan hệ đối sánh là kiểu bài nghị luận mà đối tượng được đưa ra cảm thụ không phải là một tác phẩm riêng lẻ mà ít nhất phải từ hai tác phẩm (hay đoạn trích) trở lên. Đối với kiểu bài này, người làm bài phải biết phân tích các đối tượng trong thế so sánh để tìm ra những chỗ giống nhau, khác nhau, từ đó hiểu rõ hơn về cái hay, cái đẹp của các tác phẩm, nét độc đáo trong phong cách của mỗi tác giả…
Kiểu bài này đòi hỏi người làm bài phải có năng lực thẩm bình văn chương tinh nhạy, kiến thức lí luận văn học, kiến thức về văn học sử (tác phẩm và tác giả) phong phú và phải có năng lực khái quát, tổng hợp vấn đề cao. Phải chăng vì đặc trưng yêu cầu cao như vậy nên tần số xuất hiện của nó trong các kỳ thi tốt nghiệp thương ít hơn trong các kì thi chọn học giỏi môn Ngữ văn cấp Tỉnh/Thành phố, Quốc gia và các kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng khối C, D...?
Trong quá trình rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh chuyên Văn, nếu chúng ta biết chọn và đưa ra nhiều đề văn thuộc dạng này thì không chỉ giúp các em củng cố được thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát nâng cao vấn đề mà còn là cơ hội để các em biết xâu chuỗi và vận dụng một cách nhuần nhuyễn các kiến thức đã học, phát huy năng lực sáng tạo của các em.

2.     Các dạng đề cảm thụ văn học trong quan hệ đối sánh:

Có rất nhiều dạng đề đối sánh văn học và đối tượng nghị luận cũng khá rộng. Đó có thể là hai đoạn thơ (văn), hai hình tượng, hai chi tiết trong tác phẩm, có thể là hai tác phẩm cùng thể loại, cùng viết về một đề tài hoặc hai tác phẩm của cùng một tác giả; có thể đối sánh trong quan hệ tượng đồng hoặc khác biệt, quan hệ đồng đại hoặc lịch đại…Tuy nhiên, dù là đối tượng nào thì chúng tôi nhận thấy kiểu đề đối sánh có thể quy về hai dạng chính:
2.1.  Dạng đề có định hướng nội dung cần nghị luận:
Ở các đề luận thuộc dạng này, người ra đề đã giới hạn rõ nội dung cần nghị luận. Chẳng hạn, tham khảo các đề văn sau:
 Đề 1: Thế giới tâm hồn của người lính qua hai đoạn thơ:
                                      Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
                                      Quân xanh màu lá dữ oai hùm
                                      Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
                                      Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
                                                          (Quang Dũng – Tây Tiến)
                                      Ôi những cánh đồng quê chảy máu
                                      Dây thép gai đâm nát trời chiều
                                      Những đêm dài hành quân nung nấu
                                      Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
                                                     (Nguyễn Đình Thi – Đất nước)
Đề 2: Cùng viết về đất nước và nhân dân trong kháng chiến chống Pháp nhưng ba tác phẩm: Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Việt Bắc của Tố Hữu là ba thế giới hình tượng riêng, ba giọng điệu trữ tình riêng, chứa đựng những ký thác riêng của mỗi hồn thơ.
Anh/ chị hãy phân tích ba bài thơ trong quan hệ đối sánh để chỉ ra nét riêng của mỗi tác phẩm.
Đề 3: Từ hai tác phẩm Chữ người tử tùNgười lái đò sông Đà, hãy phân tích để chỉ ra nét ổn định và sự vận động trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Ở đề thứ nhất, nội dung nghị luận được xác định rõ là Vẻ đẹp tâm hồn người lính
Ở đề 2 nội dung cần nghị luận là nét riêng trong thế giới hình tượng, giọng điệu trữ tình và kí thác của mỗi hồn thơ được thể hiện qua ba tác phẩm;
Đề thứ 3 là nét ổn định và sự vận động trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
2.2. Dạng đề không định hướng nội dung cần nghị luận:
Dạng đề này chỉ trích dẫn đoạn thơ/văn…cần nghị luận mà không đưa ra một chỉ dẫn, gợi mở nào. Chẳng hạn:
Đề 4: Cảm nhận của anh / chị về hai đoạn thơ sau:
                                        Quê hương tôi có con sông xanh biếc,
                                         Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
                                         Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè,
                                         Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng.”
                                                (Tế Hanh - Nhớ con sông quê hương)
                                      Anh đưa em về sông Đuống
                                       Ngày xưa cát trắng phẳng lì
                                      Sông Đuống trôi đi
                                      Một dòng lấp lánh
                    Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
                                  (Hoàng Cầm - Bên kia sông Đuống)
Đề 5: Theo Xuân Diệu, “trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”.
          Anh/ chị hãy phân tích những sáng tác trên trong mối quan hệ đối sánh để làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm.
Đề 6: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:
Đoạn 1: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình[…]những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên
                                                (Nguyễn Tuân – Người lái đò Sông Đà)
Đoạn 2:“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên […]như tấm lòng người dân Châu Hoa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”
          (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Ai đã đặt tên cho dòng sông ?)

3. Một số gợi ý về cách làm bài:

Ở trên, chúng tôi vừa nêu ra một số dạng đề đối sánh tiêu biểu và minh họa bằng một số đề thi đã được sử dụng trong một số kỳ thi ở địa phương và quốc gia.
Dạng đề này yêu cầu học sinh ngoài năng lực cảm nhận tốt tác phẩm, còn phải có tư duy độc lập, sáng tạo, khả năng phân tích và khái quát vấn đề một cách sắc sảo. Ngoài ra, các em cũng cần biết huy động và xử lý tốt một lượng kiến thức vừa đủ về lí luận văn học cũng như văn học sử (tác giả, giai đoạn văn học…) để bàn luận, lý giải vấn đề.
Dù yêu cầu và đối tượng so sánh là gì thì mục đích cuối cùng bài văn cần đạt được là phải chỉ ra được sự giống và khác nhau giữa các đối tượng (đặc biệt là vẻ đẹp độc đáo riêng của từng đối tượng); cắt nghĩa được nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng ấy, ý nghĩa của nó là gì…
Để đạt được mục đích này, trong quá trình rèn luyện kỹ năng cho học sinh, chúng ta yêu cầu học sinh phải linh hoạt trong cách xử lý từng dạng đề với từng yêu cầu và thao tác cụ thể.

3.1. Đối với dạng đề có định hướng nội dung cụ thể:

Học sinh một mặt phải bám sát những chỉ dẫn trong đề, mặt khác phải biết cách phân lập đối tượng  thành nhiều bình diện khác nhau để so sánh. Chẳng hạn, đối với tác phẩm văn xuôi thì cần chú ý đến sự giống, khác nhau trong đề tài, giọng điệu, nhân vật, tình huống, cốt truyện, nghệ thuật trần thuật; đối với tác phẩm trữ tình thì chú ý đến đặc điểm cái tôi trữ tình, ngôn ngữ, giọng điệu…Trên cơ sở các tiêu chí này, học sinh sẽ phân tích, đối chiếu, so sánh để đưa ra ý kiến đánh giá nhận xét của riêng mình về sự sáng tạo của từng nghệ sĩ.
Về đại thể, có thể hình dung bố cục của bài văn dạng này sẽ gồm những ý lớn như sau:
I. Mở bài.
          II. Thân bài.
              1.  Nêu, phân tích, chứng minh những điểm giống nhau (về hoàn cảnh sáng tác, thể loại, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật)
              3. Phân tích chứng minh những điểm khác nhau (về hoàn cảnh sáng tác, thể loại, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật) à Đây là ý trọng tâm.
               3. -  Khái quát lại vấn đề
                   - Phân tích nguyên nhân của sự giống, khác nhau (do kế thừa, sáng tạo, do phong cách nghệ thuật của nhà văn…)
                   - Chỉ ra ý nghĩa (sự đóng góp mới mẻ cho nền VH).  
           III. Kết bài. 

3.2 . Đối với dạng đề không định hướng nội dung cụ thể

Thông thường, hai đối tượng được đưa ra cảm nhận trong những đề văn dạng này có một mối liên hệ ngầm (tức là một hoặc một vài điểm tương đồng) nào đó, người viết phải tinh nhạy trong việc xâu chuỗi vấn đề, phát hiện mối liên hệ ấy để lấy đó làm căn cứ triển khai luận điểm. Chẳng hạn, ở đề 4 (mục 2.2) nét tương đồng ở đây là vẻ đẹp của dòng sông quê hương trong nỗi nhớ của các tác giả; là tình yêu tha thiết của hai nhà thơ đối với quê hương. Từ những điểm giống nhau đó, phải hướng dẫn học sinh chỉ ra được nét riêng độc đáo của mỗi tác giả được thể hiện trong từng đoạn thơ (qua việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, ý nghĩa biểu tượng của hình tượng…)
Theo chúng tôi, đối với dạng đề này, chúng ta có thể hướng dẫn học sinh triển khai vấn đề theo hai cách:
Cách 1: - Lần lượt phân tích từng đối tượng (đoạn thơ/văn) sau đó rút ra nhận xét về điểm giống và khác nhau giữa hai đối tượng
Ưu điểm của cách làm này là bố cục bài viết sẽ rõ ràng, học sinh sẽ chủ động trong việc phân tích bởi dạng đề cảm thụ một đoạn thơ (văn) đã quá quen thuộc với các em.
Nhược điểm của cách giải quyết vấn đề theo hướng này là dễ tạo ra cảm giác trùng lặp, đơn điệu, nhàm chán, học sinh dễ rơi vào tình trạng sa đà.
Cách 2: Phân lập các đối tượng thành từng tiêu chí cụ thể như: Hoàn cảnh sáng tác, thể loại, nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Sau khi đã xác định được những yếu tố giống và khác nhau, học sinh  tiến hành phân tích  chứng minh để làm rõ những luận điểm (tiêu chí) đã xác lập. Bước cuối cùng là lí giải nguyên nhân, chỉ ra đóng góp của từng tác giả.

II.               VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN

Những vấn đề lý thuyết nêu trên đã được chúng tôi vận dụng vào thực tiễn để giải quyết một số đề cụ thể như sau:

Đề 1:
Vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc và người lính Tây Tiến trong hai tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”  của Nguyễn Đình Chiểu và “ Tây Tiến”  của Quang Dũng.

Đối với đề này, có nhiều hướng triển khai khác nhau, ở đây, chúng tôi đề xuất các ý như sau:
1) Phân tích điểm giống và khác nhau giữa hai tác phẩm:
1.1. Điểm giống:
- Đề tài: Hai tác phẩm cùng viết về những con người đã dám xả thân hi sinh vì đất nước
- Hình tượng các nhân vật mang vẻ đẹp đậm chất bi tráng.
- Cảm hứng:  trân trọng, ngợi ca
1.2. Điểm khác:
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác, nhân vật trữ tình:
- Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc:
+ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù Nam bộ, sống gắn bó với nhân
dân miền Nam. Ông là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX
+ Bài văn tế được viết trong thời kì lịch sử “khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh đồn Cần Giuộc đêm 16.12.1861.
- Tây tiến:
+ Quang Dũng là một chiến sĩ trong đoàn quân Tây tiến, xa Tây Bắc, xa Tây Tiến, nhớ đồng đội mà viết về đồng đội.
1.2.2. Nét độc đáo của mỗi hình tượng:
- Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là người nông dân thuần phác, giản dị , quanh năm chỉ biết “ Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” nhưng có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc,. Họ tự nguyện đứng lên đánh giặc cứu nước. Trang bị vũ khí vô cùng thô sơ, kinh nghiệm trận mạc ít ỏi nhưng họ chiến đấu với tinh thần quả cảm và  đã hi sinh anh dũng.
-   Hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến là những thanh niên, học sinh Hà Nội xếp bút nghiên lên đường cứu nước. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn nhưng họ vẫn giữ được vẻ đẹp rất hào hùng mà cũng rất hào hoa.
1.2.3. Nghệ thuật khắc họa:
- Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc: giọng điệu trang trọng, bi thương, câu văn biền ngẫu có kết cấu đăng đối, ngôn ngữ giàu hình ảnh và sức biểu cảm với hệ thống các hình ảnh so sánh ví von, chi tiết chọn lọc đặc sắc…
- Hình tượng người lính Tây Tiến: Được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn mang đậm chất bi tráng…
2)  Bàn luận mở rộng:
- Cùng viết về người lính nhưng với tài năng nghệ thuật riêng các nhà thơ, nhà văn đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của người lính trong văn học và cho người đọc một bài học về sự sáng tạo.
- Với bài “ Văn tế…” lần đầu tiên người nông dân áo vải bước vào văn học với tư cách là người lính, cùng với những tác phẩm khác cùng đề tài tạo nên vẻ đẹp của người lính trong văn học Trung đại. “ Tây tiến” chính là sự kế thừa và sáng tạo từ hình ảnh này.
Đề 2:
Theo Xuân Diệu, “trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”.
          Anh/ chị hãy phân tích những sáng tác trên trong mối quan hệ đối sánh để làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm.
Đề này khá quen thuộc trong một số kỳ thi, vì vậy chúng tôi đưa một số gợi ý mang tính chất tham khảo:
1)    Những nét giống nhau:
-         Cả ba bài thơ đều viết về vẻ đẹp thanh sơ, buồn vắng của mùa thu nông thôn xứ Bắc bằng những nét chấm phá đơn sơ.
-         Đều thể hiện tâm trạng ưu thời mẫn thế của thi nhân
2)    Những điểm khác nhau:
2.1.         Tâm thế của nhân vật trữ tình và cảnh sắc mùa thu:
Thu vịnh (Mùa thu làm thơ):
+ Nhân vật trữ tình là một nhà Nho có tâm hồn thi sĩ đang thả hồn vào cảnh vật
+  Không gian thanh vắng, yên tĩnh của mùa thu được quan sát từ xa đến gần, từ cao đến thấp với những nét phác thảo đơn sơ (Trời thu à Cần trúc à Nước biếc à Song thưa); sự yên tĩnh của không gian được tô đậm bằng âm vang của một tiếng chim rót từ trên cao xuống (Một tiếng trên không ngỗng nước nào).
+  Thời gian: mơ hồ, huyền hoặc, không xác định rõ với các hình ảnh trời thu xanh ngắt, nước biếc,  bóng trăng, Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái…
- Thu điếu (Mùa thu câu cá)
+ Cảnh được nhìn qua mắt của một ngư ông.
+  Không gian được miêu tả từ thấp đến cao. Tác giả cũng sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh, đó là âm thanh tiếng cá quẫy vọng lên từ mặt nước…
Thu ẩm (Mùa thu uống rượu)
+ Cảnh đêm thu được tái hiện qua mắt nhìn của một túy ông
+  Không gian nơi miền quê yên tĩnh được gợi lên qua các hình ảnh năm gian nhà cỏ thấp le te, ngõ tối, đêm sâu, đóm lập lòe, làn ao lóng lánh bóng trăng loeà Tất cả có sự  nhòe mờ
2.2. Tâm trạng của nhân vật trữ tình:
- Trong Thu vịnh: mặc cảm xấu hổ với tiền nhân
- Trong Thu điếu: nỗi suy tư triền miên, sâu lắng trước thời thế
- Trong Thu ẩm: nỗi buồn cô đơn đến mức tận cùng: Rượu tiếng răng hay hay chẳng mấy /Độ năm ba chén đã say nhè.
3) Bàn luận:
- Ba bài thơ đã thể hiện rõ tài thơ và tấm lòng của tác giả
- Thể hiện rõ quy luật sáng tạo của văn chương nghệ thuật
- Đóng góp có ý nghĩa của Nguyễn Khuyến cho thơ về đề tài mùa thu.
Đề 3: Tiếng nói tri âm qua hai tác phẩm Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du và Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo.
Đề 4: Tâm sự của Nguyễn Duy qua hai bài thơ Ánh trăngĐò Lèn
Đề 5: Hình tượng người bà trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt và Đò Lèn của Nguyễn Duy
Đề 6: Đều viết về vẻ đẹp của những dòng sông trên mọi miền quê hương đất nước nhưng mỗi nhà văn có một khám phá, phát hiện khác nhau.
Từ hai tác phẩm Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông, hãy chứng minh.
Đề 7: Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy Tưởng được thể hiện qua hai tác phẩm Chữ người tử tù Vũ Như Tô.


THAY LỜI KẾT:

Trên đây chỉ là những kinh nghiệm mà chúng tôi bước đầu rút ra trong quá trình tìm tòi, hướng dẫn học sinh rèn luyện. Với đặc điểm của một trường chuyên tuổi đời còn non trẻ, kinh nghiệm bồi dưỡng chưa có nhiều và thành tích cũng còn rất khiêm tốn, chúng tôi hy vọng được trao đổi, góp ý và học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm quý báu từ các trường bạn.



Chuyên đề so sánh văn học

CHUYÊN ĐỀ SO SÁNH VĂN HỌC
                                        


I/ Khái quát về so sánh văn học
1/ Khái niệm
Khái niệm so sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác nhau. Thứ nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu văn”. Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập luận như: phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11. Thứ ba, nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết bài nghị luận, tức là như một kiểu bài nghị luận cạnh các kiểu bài nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi… ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Trong chuyên đề này khái niệm so sánh văn học chủ yếu được hiểu theo nghĩa là một kiểu bài nghị luận.
2. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu so sánh văn học.
          - So sánh là một thao tác lập luận rất quan trọng không chỉ trong văn học mà còn rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Việc rèn luyện tốt tư duy so sánh sẽ giúp học sinh có cái nhìn sắc bén, không phiếm diện về các vấn đề văn học cũng như các vấn đề trong cuộc sống.
          - Gần đây trong đề thi tuyển đại học và cao đẳng của Bộ giáo dục và đào tạo, trong câu 5(đ) thường xuất hiện dạng đề so sánh, vì vậy kĩ năng làm kiểu bài so sánh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ôn luyện của các thầy cô giáo cũng như quyết định đến chất lượng bài thi của học sinh.
3/ Mục đích của kiểu bài so sánh
Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học – một năng lực rất cần thiết góp phần tránh đi khuynh hướng “bình tán”, khuôn sáo trong các bài văn của học sinh hiện nay. Lẽ hiển nhiên, đối với đối tượng học sinh trung học phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải sự giống và khác nhau cũng cần phải tính toán hợp lí với năng lực của các em. Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng trong từng bài, từng cấp học sẽ là căn cứ để kiểm định những vấn đề này.
4/ Các dạng so sánh thường gặp.
Kiểu bài so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên nhiều bình diện:
- So sánh các tác phẩm
- So sánh các đoạn tác phẩm (hai đoạn thơ hoặc hai đoạn văn xuôi)
- So sánh các nhân vật văn học.
- So sánh các tình huống truyện.
-  So sánh các cốt truyện.
-  So sánh cái tôi trữ tình giữa các bài thơ.
- So sánh các chi tiết nghệ thuật.
- So sánh nghệ thuật trần thuật…
Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học.
5/ Cách làm bài dạng đề so sánh
Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có 3 phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi. Dàn ý khái quát của kiểu bài này như sau:

MỞ BÀI:     

      -    Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này)

      -   Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh 

THÂN BÀI:
Học sinh có thể chọn một trong hai cách sau
Cách 1:
   1. Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
         2. Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
         3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh).
         4. Lý giải sự khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…( bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
Cách 2:
1. Giới thiệu vị trí, sơ lược về hai đối tượng cần so sánh.
2.So sánh nét tương đồng và nét khác biệt giữa hai hai nhiều đối tượng theo từng tiêu chí trên cả hai bình diện nội dung, nghệ thuật. Ở mỗi tiêu chí tiến hành phân tích ở cả hai tác phẩm để có thể thấy được điểm giống, điểm khác.
Học sinh có thể dựa vào một số tiêu chí sau để tìm ý (tất nhiên tùy từng đề cụ thể có thể thêm, hoặc bớt các tiêu chí)
- Tiêu chí về nội dung: đề tài, chủ đề, hình tượng trung tâm (tầm vóc, vai trò, ý nghĩa của hình tượng), cảm hứng, thông điệp của tác giả….
- Tiêu chí về hình thức nghệ thuật: Thể loại, hệ thống hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu, giọng điệu, biện pháp nghệ thuật…
3. Sau khi  chỉ ra điểm giống, điểm khác cần lí giải vì sao có điểm giống, điểm khác này.
Với cách làm này các tiêu chí so sánh được thể hiện một cách rõ ràng và phân tích kĩ hơn tuy nhiên đòi hỏi học sinh phải có khả năng tổng hợp và tư duy rất cao để tìm ra các tiêu chí so sánh ( nếu không sẽ bị mất ý) nên cách làm này theo chúng tôi chỉ nên áp dụng với đối tượng học sinh giỏi. Trong khuôn khổ của chuyên đề, tất cả các đề thực nghiệm đều được chúng tôi triển khai theo cách làm thứ nhất để phù hợp với đông đảo đối tượng học sinh phổ thông cũng như đáp án của Bộ giáo dục và đào tạo.

KẾT BÀI:

            - Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu

            - Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.

II/ Đề thực nghiệm.
          Dạng đề so sánh văn học rất đa dạng, phong phú có thể tiến hành ở rất nhiều cấp độ khác nhau. Trong khuôn khổ của một chuyên đề chúng tôi chỉ đưa ra đề thực nghiệm ở một số dạng thông dụng, phổ biến nhất với đối tượng học sinh PTTH.
1/ So sánh hai đoạn tác phẩm văn xuôi.
Đề bài: So sánh hai đoạn văn sau:
“ Đã từ nãy Mỵ thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như nhữngđêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêungười có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ, không có lòngvới nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này,Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấynước mắt ứa ra.
Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
"Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi...".
ASử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm haivòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngàymấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũngchẳng bao giờ Mỵ nói.
Bây giờ Mỵ cũng không nói. Mỵ đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.Trongđầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo. Mỵ muốn đi chơi. Mỵ cũng sắp đi chơi. Mỵquấn lại tóc. Mỵ với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách”
                                       (Vợ chồng A Phủ- SGK Ngữ văn 12 tập 2)
“Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”
                                               (Vợ Nhặt- SGK Ngữ văn 12 tập 2)
 Dàn ý
3.a

Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn  trên.
5 điểm

1.
Giới thiệu khái quát về hai tác giả Tô Hoài, Kim Lân và hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ Nhặt”, hai đoạn văn  được yêu cầu cảm nhận.
0,25
2
Cảm nhận về hai đoạn văn
4

a.     Đoạn văn trong “Vợ chồng A Phủ”
   - Tóm tắt nhanh các sự kiện xảy ra trước đoạn văn này.
   - Đoạn văn thể hiện tâm lí phức tạp của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân qua đó cho thấy sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở  con người tưởng như  đã chai lì đến mức là “con rùa nuôi trong xó cửa”:
+ Mị bừng lên khát vọng sống mãnh liệt qua việc muốn đi chơi ngày tết.
+ Mị ý thức được tuổi xuân của mình.
+ Mị phản ứng dữ dội với thực tại khi cay đắng nhận ra mối quan hệ  không có tình cảm với A Sử. Mị không còn tê liệt như trước đây mà có sự lựa chọn rõ ràng: sẵn sàng chấp nhận cái chết để chấm dứt sự tồn tại vô nghĩa.
+ Mị hiện thực hóa khát vọng của mình bằng một loạt các hành động nhanh, mạnh, gấpgáp
   -Nghệ thuật phân tích miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến trình độ bậc thầy của Tô Hoài. Các câu văn ngắn, ngắt nhịp nhanh góp phần thể hiện sức sống mãnh liệt ở Mị
b. Đoạn  văn trong bài Vợ Nhặt của Kim Lân:
   - Tóm tắt nhanh các sự kiện xảy ra trước đoạn văn này.
    - Đoạn văn thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tâm lí, tính cách của nhân vật Tràng:
+ Từ một người vô tâm vô tính, sau khi có vợ, có một gia đình Tràng đã có những cảm xúc cảm động, thấm thía. Anh cảm nhận được hạnh phúc, hơi ấm của gia đình.
+ Từ một anh cu Tràng có phần trẻ con, Tràng đã thực sự trưởng thành, chin chắn, có những suy nghĩ nghiêm túc về gia đình và có ý thức lo cho tương lai của gia đình mình
-Nghệ thuật phân tích miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân với những cảm xúc nhẹ nhàng nhưng tinh tế của Tràng. Những câu văn thấm đẫm chất thơ.



3
 So sánh:
0,5đ

- Điểm tương đồng:
+ Cả hai đoạn văn đều cho thấy những diễn biến, phản ứng tâm lí rất tinh tế của hai nhân vật chính trong hai tác phẩm. Đó đều là khát vọng mãnh liệt, cháy bỏng về hạnh phúc và tương lai.
+ Cả hai nhân vật đều có những hành động thiết thực, cụ thể để hiện thực hóa ước mơ khát vọng của mình.
+ Đều cho thấy sự vận động mạnh mẽ từ bóng tối ra ánh sáng, từ đau khổ đến hạnh phúc của người nông dân qua đó cho thấy tinh thần nhân đạo cao cả của hai nhà văn
+ Đều thể hiện khả năng phân tích, miêu tả tâm lí bậc thầy của hai tác giả.
- Điểm khác biệt:
+ Đoạn văn miêu tả tâm lí của Mị cho thấy sự giằng xé, mâu thuẫn giữa hiện thực và ước mơ, khát vọng;  còn đoạn văn miêu tả tâm lí của Tràng lại miêu tả quá trình vận động tất yếu từ sự chuẩn bị của hiện thực (Tràng có vợ, có một gia đình, nhận được tình yêu thương của vợ và mẹ)
+ Mức độ vận động: ở Mị thể hiện rõ sự mãnh liệt còn ở Tràng thiên về những cảm xúc nhẹ nhàng, xúc động
-Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả Tô Hoài và Kim Lân đều là hai nhà văn rất gắn bó với người nông dân; cả hai tác phẩm đều ra đời sau cách mạng khi nhận thức của các nhà văn đã được Đảng soi đường, chỉ lối, khi người nông dân đã có sự đổi đời.
+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn






3
Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai đoạn văn đặc sắc vừa thấm đẫm tinh thần nhân đạo, vừa thể hiện khả năng phân tích tâm lí của hai nhà văn.
- Cả Vợ chồng A Phủ  và Vợ nhặt đều là những tác phẩm xuất sắc viết về người nông dân trong văn học Việt Nam
0,25đ

2/ So sánh hai đoạn thơ
Đề bài:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
       (Vội vàng-Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập một, NXB GD, tr.23)
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
 (Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB GD, tr.156)   Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên. 

3/ So sánh hai nhân vật văn học.
3.a

Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.

1.
Giới thiệu khái quát về hai tác giả Xuân Diệu, Xuân Quỳnh và hai bài thơ Vội vàng, Sóng, hai đoạn thơ được yêu cầu cảm nhận.
2
Cảm nhận về hai đoạn thơ

a. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
   - Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy, no nê ) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).
   - Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.
b. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
    - Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong được tan hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng” giữa biển cả mênh mông;
 Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống, tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách để tình yêu trở thành bất tử.
      - Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.
3
 So sánh:

- Điểm tương đồng:
+ Cả hai đoạn thơ đều thể hiện được tình yêu mãnh liệt, trào dâng của nhân vật trữ tình.
+ Đều thể hiện khao khát vượt qua giới hạn nhỏ hẹp để thỏa mãn tình yêu rộng lớn.
+Đều có sự kết hợp giữa cảm xúc và triết lí
+Đều sự dụng thể thơ tự do, với các hình ảnh sóng đôi, khai thác hiệu quả của nghệ thuật ẩn dụ
- Điểm khác biệt:
+Tình yêu trong Sóng  là tình yêu lứa đôi còn tình yêu trong Vội vàng là tình yêu cuộc sống.
+Khát vọng trong Sóng là khát vọng bất tử hóa, vĩnh viễn hóa tình yêu còn khát vọng trong Vội vàng  là khát vọng được tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc sống của trần gian.
+ Cảm xúc của nhân vật trữ tình trong Sóng là cảm xúc lắng sâu, tha thiết, đằm thắm còn trong Vội vàng là đắm say, cuồng nhiệt, vồ vập.
+Điểm khác biệt không chỉ nằm ở phong cách thơ mà còn trong cách “ứng xử” của mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp, tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái riêng vào cái chung để tình yêu trở thành bất tử …
+ Về nghệ thuật: ở Sóng, Xuân Quỳnh sử dụng thể thơ ngũ ngôn trường thiên với những câu thơ nhịp nhàng, đều đặn gợi âm điệu của tiếng sóng biển, hình ảnh giản dị giàu sức gợi; còn ở Vội vàng , Xuân Diệu sử dụng thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn không đều nhau, hình ảnh tươi mới, tràn đầy sức sống, cách ngắt nhịp nhanh mạnh, giọng thơ sôi nổi
-Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh đều là những nhà thơ “Khát sống thèm yêu”.
+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn

3
Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai đoạn thơ đặc sắc thể hiện rõ phong cách của hai nhà thơ

3/ So sánh hai nhân vật văn học
Đề bài: So sánh nhân vật Quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân với Đan Thiềm trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng.
Dàn ý:
3.a

Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.

1.
Giới thiệu khái quát về hai tác giả Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy tưởng và hai tác phẩm, hai nhân vật được yêu cầu cảm nhận.
2
Cảm nhận về hai nhân vật

a.     Nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
- Là người nắm giữ quyền lực cao nhất trong nhà ngục nhưng lại có sở thích lạ lung: Thích chơi chữ. Chính sở thích cao quý này cùng tính cách nhẹ nhàng, biết giá người, biết trọng người ngay  đã khiến cho Quản ngục vượt qua sự chi phối của địa vị xã hội để  thể hiện tấm lòng biệt nhỡn liên tài với Huấn Cao. Hành động suốt nửa tháng đem rượu thịt cho Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông cho thấy Quản ngục sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm để thể hiện tình yêu với cái đẹp, cái tài. Trong cảnh cho chữ, vẻ đẹp tâm hồn của Quản ngục một lần nữa được thể hiện rõ khi nhân vật này được cái đẹp từ nghệ thuật và từ thiên lương của Huấn Cao hướng thiện, thanh lọc. Câu nói  Kẻ mê muội này xin bái lĩnh cùng cái bái lạy và dòng nước mắt đã cho thấy sự trong sang, tốt đẹp trong nhân cách của Quản Ngục.
   - Quản ngục là một nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, có sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đi sâu làm rõ những phức tạp trong tâm lí của Quản ngục bằng bút pháp độc thoại nội tâm.
 b. Nhân vật Đan Thiềm trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
- Đan Thiềm là một cung nữ bị thất sủng có cái nhìn tỉnh táo, thức thời nhưng quan trọng hơn là có một tình yêu mãnh liệt dành cho cái đẹp, cái tài. Bà chính là người đã khuyên Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài rồi đến hồi kết cũng chính bà là người đã khuyên Vũ Như Tô đi trốn. Cả hai lời khuyên đều xuất phát từ tình yêu dành cho cái đẹp, cái tài. Trong đoạn trích Đan Thiềm khẩn thiết giục Vũ Như Tô đi trốn, bà tìm cách bảo vệ Vũ Như Tô như bảo vệ chính tính mạng cho mình. Khi không thể trốn được nữa Đan Thiềm đã xin tha sau đó xin chết thay cho Vũ Như Tô. Đó chính là tinh thần dũng cảm sẵn sàn hi sinh vì cái đẹp, cái tài. Cuối cùng khi mọi nỗ lực đều không thành Đan Thiềm đã từ biệt Vũ Như Tô bằng tiếng kêu xé lòng.
       - Đan Thiềm thuộc kiểu nhân vật loại hình (nhân vật đặc trưng của thể loại kịch). Tính cách, tâm lí của nhân vật chủ yếu thể hiện qua ngôn ngữ và hành động
3
 So sánh:

- Điểm tương đồng:
+ Cả hai nhân vật đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhân vật chính (người nghệ sĩ)
+ Cả hai nhân vật đều bị đặt trong thế tương phản, đối lập với hoàn cảnh.
+ Đều có tình yêu mãnh liệt dành cho cái đẹp, cái tài, sẵn sàng hi sinh vì cái đẹp, cái tài
- Điểm khác biệt
+ Quản Ngục phải trải qua quá trình đấu tranh nội tâm gay gắt sau đó mới đưa ra quyết định biệt đãi Huấn Cao còn Đan Thiềm ngay từ đầu đã có lựa chọn dứt khoát.
+Trong quan hệ với nhân vật chính Quản ngục là người được tác động để được thanh lọc còn Đan Thiềm lại là người trực tiếp tác động vào Vũ Như  Tô  để nghệ thuật được khai sinh
+ Về nghệ thuật: Ở Quản Ngục có tâm trạng phức tạp gắn với bút pháp độc thoại nội tâm còn ở Đan Thiềm tâm trạng được thể hiện qua ngôn ngữ, hành động bên ngoài
-Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả hai nhà văn đều là những người nặng lòng với cái đẹp. Cả hai tác phẩm đều ra đời trước cách mạng gắn với hiện thực đen tối, ngột ngạt mâu thuẫn gay gắt với cái đẹp, ước mơ, khát vọng của con người.
+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn

3
Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai nhân vật độc đáo thể hiện rõ thông điệp nghệ thuật của hai nhà  văn.

4/ So sánh hai chi tiết nghệ thuật
Đề bài:
          So sánh ánh sáng và bóng tối giữa Hai đứa trẻ  và Chữ người tử tù.
3.a

Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai chi tiết nghệ thuật.

1.
Giới thiệu khái quát về hai tác giả Thạch Lam, Nguyễn Tuân và hai bài truyện ngắn Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù; hai chi tiết được yêu cầu cảm nhận.
2
Cảm nhận về hai chi tiết nghệ thuật

a. Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ.
   - Dạng thức của ánh sáng, bóng tối
+ Ánh sáng: vừa mang ý nghĩa vật lý (những nguồn sáng xuất hiện trong tác phẩm như: Phương tây đỏ rực, ngọn đèn chị Tý, bếp lửa của bác Siêu, chuyến tàu...) vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho ước mơ, khát vọng
+ Bóng tối: vừa mang ý nghĩa vật lý (dãy tre làng đen lại, bóng tối mù mịt dày đặc trong đêm…)
- Tương quan ánh sáng, bóng tối: tồn tại trong thế giao tranh từ đầu đến cuối tác phẩm trong đó bóng tối càng lúc càng chiếm ưu thế để rồi thắng thế còn ánh sáng thì nhỏ bé, tội nghiệp. Về ý nghĩa thực nó cho thấy bức tranh phố huyện nghèo nàn, tăm tối. Về ý nghĩa biểu tượng nó cho thấy những con người nhỏ bé như chị em Liên mang trong mình ước mơ, khát vọng mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng nhưng ước mơ đã mâu thuẫn gay gắt và có nguy cơ bị bóp nghẹt bởi hiện thực tăm tối.
b. Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
    - Dạng thức của ánh sáng, bóng tối:
+ Ánh sáng: vừa có dạng thức vật lý ( ngọn đèn của Quản ngục, ánh sáng của vì sao Hôm , ngọn đuốc tẩm dầu..) vừa mang tính biểu tượng cho vẻ đẹp của nghệ thuật cao quý và thiên lương trong sáng tốt đẹp của con người.
+Bóng tối: Vừa có dạng thức vật lý (Bóng tối bao trùm trong đêm quản ngục ngồi suy nghĩ cùng cái chật hẹp, tối tăm, bẩn thỉu của buồng giam..) vừa mang tính biểu tượng cho hiện thực đen tối, ngột ngạt, bạo tàn của nhà ngục nói riêng và xã hội nói chung
      -Tương quan ánh sáng, bóng tối và ý nghĩa: Có sự giao tranh gay gắt nhưng ánh sáng đã nổi bật trên nền cái tăm tối, bẩn thỉu ( như ánh sáng của bó đuốc và màu trắng của tấm lụa nổi bật trên nền của nhà giam bẩn thỉu, chật chội; như vẻ đẹp trong thiên lương của Huấn Cao và Quản ngục đã nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt)

3
 So sánh:

- Điểm tương đồng:
+ Cả ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm đều xuất hiện với một tần số lớn
+ Ánh sáng đều biểu tượng cho những điều tốt đẹp còn bóng tối biểu tượng cho hiện thực đen tối, nghiệt ngã.
+ Ánh sáng và bóng tối ở cả hai tác phẩm đều tồn tại trong thế giao tranh với nhau một cách gay gắt
+ Đều được xây dựng bằng bút pháp tương phản đối lập đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn.
- Điểm khác biệt:
+ Trong Hai đứa trẻ, ánh sáng nhỏ bé, yếu ớt còn bóng tối bao trùm, chiếm ưu thế còn trong Chữ người tử tù  ánh sáng lại nổi bật rực  rỡ trên nền bóng tối.
+ Thông điệp mà Thạch Lam muốn gửi gắm là hãy thay đổi hiện thực để con người có thể sống trọn vẹn với ước mơ hi vọng của mình còn của Nguyễn Tuân lại là cái đẹp có một sức mạnh kì diệu, nó có thể nối liền mọi khoảng cách, có thể thanh lọc tâm hồn cho con người
+ Về Nghệ thuật: Thạch Lam miêu tả ánh sáng, bóng tối bằng thứ ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu nhạc điệu hình ảnh còn Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ góc cạnh, giàu tính tạo hình
-Lí giải điểm tương đồng khác biệt:
+ Có những điểm tương đồng là do cả Nguyễn Tuân và Thạch Lam đều là những nhà văn lãng mạn, cùng sống trong hiện thực tăm tối trước 1945
+ Có điểm khác biệt là do yêu cầu bắt buộc của văn học (không cho phép sự lặp lại) và do phong cách riêng của mỗi nhà văn

3
Kết bài:
-Khẳng định đây đều là hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc thể hiện rõ phong cách của hai nhà văn