TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG
LẦN THỨ VII - LÀO CAI
![]() |
KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI
TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG LẦN THỨ VII - NĂM 2011
HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN THI: NGỮ VĂN
(Hướng
dẫn chấm được in trong 03 trang)
|
Câu 1 (8 điểm)
I. Yêu cầu về
kĩ năng:
- Biết cách làm bài nghị luận
về một tư tưởng, đạo lý.
- Diễn đạt trong sáng, mạch lạc,
lập luận chặt chẽ, lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
II. Yêu cầu về
kiến thức:
Đây là dạng
đề mở, ra đề theo cách gián tiếp. Vấn đề nghị luận được nêu ra qua một câu chuyện.
Để giải quyết yêu cầu của đề, bài viết cần đạt được các ý cơ bản sau:
Ý
|
Nội dung chính cần đạt
|
Điểm
|
1
![]()
2
|
Đọc
hiểu văn bản, tìm ý nghĩa câu chuyện: Đối thủ đáng sợ nhất của mỗi người không phải ai khác
mà chính là bản thân mình. Vượt qua, chiến thắng được chính mình là điều khó
khăn nhất và cũng là “chiến thắng hiển
hách nhất”(Flatông).
Bàn
luận về vấn đề:
* Cần khẳng
định đó là một tư tưởng đúng, một tư tưởng mang tính triết lý (Ý nghĩa của
câu chuyện tình cờ lại gặp gỡ với một lời răn trong Kinh Phật “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính
mình”)
* Lí giải và
chứng minh vấn đề:
- Vì sao đối thủ của mỗi người là
chính mình?
+ Con người
sinh ra trên đời không có ai hoàn thiện (Bản thân từ “con người” đã nói lên điều này). Nhưng bản chất của con người là
hướng thiện, luôn muốn tự hoàn thiện mình, vì thế phải đấu tranh, đấu tranh
để chế ngự bản thân, chế ngự phần bản năng, phần xấu trong con người mình.
+ Sống ở trên
đời mỗi người có một hoàn cảnh, một điều kiện, một số phận. Có những số phận
may mắn, cũng có những số phận thiệt thòi… Con người muốn tồn tại, muốn sống
cho ra con người thì càng phải đấu tranh để vượt lên chính mình. (Học sinh
lấy dẫn chứng chứng minh).
- Vì sao bản thân mình lại là đối
thủ đáng sợ nhất?
Cuộc sống là một “trường tranh đấu”, con người phải đấu tranh với những thế lực bên
ngoài (thiên nhiên, các thế lực thù địch, các đối thủ…) và đấu tranh với bản
thân (như đã nói trên) nhưng tính chất của hai cuộc đấu tranh này không giống
nhau:
+ Khi cuộc
sống đặt ai đó trong một cuộc tranh giành (tranh giành sức mạnh, tranh tài…)
thì cuộc đấu ấy có đối thủ rõ ràng, có thế trận, có tương quan lực lượng bày
ra trước mắt mọi người. Mỗi đối thủ trong cuộc chơi phải vận động tất cả sức
lực, tài trí của mình để giành chiến thắng.
+ Còn cuộc
đấu với bản thân? Nó âm thầm, lặng lẽ,
một mình mình biết, một mình mình hay…Thêm nữa, trong cuộc sống, con người ta
thường nghiêm khắc, xét nét người khác nhưng lại dễ dãi với bản thân, hay
thỏa hiệp, khoan nhượng với mình… Vì thế dễ đi đến thất bại. (Có thể dẫn ra những câu chuyện, những ví
dụ về những con người không vượt qua được chính mình, hoặc những trải nghiệm
của chính bản thân).
|
2,0
5,0
|
3
|
Đánh giá, kết luận:
- Khẳng định
tư tưởng gửi gắm trong câu chuyện là hoàn toàn đúng đắn.
- Liên hệ, rút ra bài học cho bản
thân.
|
1,0
|
Lưu ý:
Khuyến khích những bài viết sáng tạo, có kiến giải hợp lí,
thuyết phục, có thể bỏ qua những lỗi nhỏ về kĩ năng hoặc một vài khía cạnh còn
chưa sâu so với đáp án.
Chỉ cho điểm tối đa từng ý khi bài viết đảm bảo được yêu cầu
về nội dung và kĩ năng.
Câu 2 (12
điểm)
I. Yêu cầu về
kĩ năng:
- Biết cách làm bài nghị luận văn học tổng hợp các
thao tác.
- Bố cục chặt chẽ, mạch lạc, diễn đạt trong sáng và cảm
xúc, sáng tạo.
II. Yêu cầu về
kiến thức:
Bài viết cần đảm bảo những ý cơ bản sau:
Ý
|
Nội dung chính cần đạt
|
Điểm
|
1
|
Giới thiệu vấn đề nghị luận một
cách rõ ràng, hấp dẫn.
|
0,5
|
2
|
Giải thích vấn đề :
- Tác phẩm
văn học gửi gắm tư tưởng, tình cảm của tác giả, vì vậy nó cho thấy quan điểm,
cái nhìn của tác giả đối với con người và thời đại.
- Tiếng nói
hiểu đời: là sự thấu hiểu, nhận thức được những vấn đề quan trọng về con
người, thời đại và xã hội. Điều đó đòi hỏi ở người sáng tác một vốn sống
phong phú và sự từng trải cũng như một tâm hồn đồng cảm và yêu thương con
người sâu sắc.
|
2,0
|
3
|
Phân
tích và chứng minh qua hai đoạn trích “Trao duyên” và “Nỗi thương mình”:
- Nguyễn Du
đã từng sống trong thời đại xã hội phong kiến có sự khủng hoảng, bế tắc và
bản thân ông đã từng lưu lạc, sống khổ cực cùng nhân dân nên có điều kiện để
tiếp xúc với nhiều cảnh đời bất hạnh và có những trải nghiệm sâu sắc (0,75 điểm).
- Mặt khác,
ông còn am hiểu tâm lí con người, hiểu chỗ mạnh, chỗ yếu và mọi uẩn khúc,
trạng thái tâm lí của con người, vì vây nhân vật của ông thường có những
trạng thái tâm lí phức tạp, tinh tế (0,75
điểm).
- Chứng minh
qua hai đoạn trích (6,0 điểm).
+ Trao
duyên: Nguyễn Du
hiểu bi kịch tình yêu tan vỡ, hiểu hoàn cảnh ép buộc nàng Kiều phải lựa chọn
giữa hiếu và tình. Tác giả đã thể hiện sâu sắc mâu thuẫn nội tâm của Thuý
Kiều trước khi trao duyên và sau khi trao duyên, đồng thời ca ngợi nhân cách
cao đẹp của Kiều: vị tha và đức hy sinh (3,0
điểm).
+ Nỗi
thương mình: Tác giả thấu
hiểu và cảm thông với cuộc sống tủi nhục, đau đớn, ê chề của Kiều ở chốn lầu
xanh và khát vọng muốn vươn tới một cuộc sống thanh cao của nàng. Qua đó, ta
thấy được ý thức về nhân phẩm của nàng Kiều, tuy “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” ( 3,0 điểm).
|
7,5
|
4
|
Đánh giá vấn đề:
- Tiếng nói “hiểu đời” của Nguyễn Du không chỉ bộc lộ trong hai đoạn trích mà
còn thể hiện trong toàn bộ “Truyện Kiều”
cũng như sự nghiệp sáng tác của thi sĩ. Tiếng nói ấy chứng tỏ ông là một nghệ
sĩ lớn, một trái tim lớn luôn đồng cảm, thương yêu sâu sắc và thấu hiểu mọi
nỗi oan tình của con người.
- Tiếng nói “ hiểu đời” đã làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Truyện Kiều”. Nó để lại bài học sáng
tạo văn chương cho những người cầm bút hiện nay: Muốn có được tác phẩm văn
học đích thực cần phải có vốn sống, từng trải và trái tim nhân ái bao la.
|
1,5
|
5
|
Khái quát vấn đề: sâu sắc, hấp
dẫn, lắng đọng
|
0,5
|
*Lưu ý: Giám khảo chấm bài cần vận
dụng linh hoạt đáp án, biểu điểm. Đặc biệt khuyến khích những bài viết có nhiều
ý tưởng sáng tạo, cảm thụ văn chương tốt.
-----------------Hết---------------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét