Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Đề thi học sinh giỏi ngữ văn 10




TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG
LẦN THỨ VII - LÀO CAI
 

KỲ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI
TRẠI HÈ HÙNG VƯƠNG LẦN THỨ VII - NĂM 2011
HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN THI: NGỮ VĂN
HDC CHÍNH THỨC
 
(Hướng dẫn chấm được in trong 03 trang)



Câu 1 (8 điểm)
I. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách làm bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lý.
- Diễn đạt trong sáng, mạch lạc, lập luận chặt chẽ, lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
II. Yêu cầu về kiến thức:       
        Đây là dạng đề mở, ra đề theo cách gián tiếp. Vấn đề nghị luận được nêu ra qua một câu chuyện. Để giải quyết yêu cầu của đề, bài viết cần đạt được các ý cơ bản sau:

Ý
Nội dung chính cần đạt
Điểm
1



 

2
 Đọc hiểu văn bản, tìm ý nghĩa câu chuyện: Đối thủ đáng sợ nhất của mỗi người không phải ai khác mà chính là bản thân mình. Vượt qua, chiến thắng được chính mình là điều khó khăn nhất và cũng là “chiến thắng hiển hách nhất”(Flatông).

Bàn luận về vấn đề:
* Cần khẳng định đó là một tư tưởng đúng, một tư tưởng mang tính triết lý (Ý nghĩa của câu chuyện tình cờ lại gặp gỡ với một lời răn trong Kinh Phật “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình”)
* Lí giải và chứng minh vấn đề:
          - Vì sao đối thủ của mỗi người là chính mình?
+ Con người sinh ra trên đời không có ai hoàn thiện (Bản thân từ “con người” đã nói lên điều này). Nhưng bản chất của con người là hướng thiện, luôn muốn tự hoàn thiện mình, vì thế phải đấu tranh, đấu tranh để chế ngự bản thân, chế ngự phần bản năng, phần xấu trong con người mình.
+ Sống ở trên đời mỗi người có một hoàn cảnh, một điều kiện, một số phận. Có những số phận may mắn, cũng có những số phận thiệt thòi… Con người muốn tồn tại, muốn sống cho ra con người thì càng phải đấu tranh để vượt lên chính mình. (Học sinh lấy dẫn chứng chứng minh).
          - Vì sao bản thân mình lại là đối thủ đáng sợ nhất?
      Cuộc sống là một “trường tranh đấu”, con người phải đấu tranh với những thế lực bên ngoài (thiên nhiên, các thế lực thù địch, các đối thủ…) và đấu tranh với bản thân (như đã nói trên) nhưng tính chất của hai cuộc đấu tranh này không giống nhau:
+ Khi cuộc sống đặt ai đó trong một cuộc tranh giành (tranh giành sức mạnh, tranh tài…) thì cuộc đấu ấy có đối thủ rõ ràng, có thế trận, có tương quan lực lượng bày ra trước mắt mọi người. Mỗi đối thủ trong cuộc chơi phải vận động tất cả sức lực, tài trí của mình để giành chiến thắng.
+ Còn cuộc đấu với bản thân?  Nó âm thầm, lặng lẽ, một mình mình biết, một mình mình hay…Thêm nữa, trong cuộc sống, con người ta thường nghiêm khắc, xét nét người khác nhưng lại dễ dãi với bản thân, hay thỏa hiệp, khoan nhượng với mình… Vì thế dễ đi đến thất bại. (Có thể dẫn ra những câu chuyện, những ví dụ về những con người không vượt qua được chính mình, hoặc những trải nghiệm của chính bản thân).
2,0




5,0
3
 Đánh giá, kết luận:
- Khẳng định tư tưởng gửi gắm trong câu chuyện là hoàn toàn đúng đắn.
- Liên hệ, rút ra bài học cho bản thân.
1,0

Lưu ý:
Khuyến khích những bài viết sáng tạo, có kiến giải hợp lí, thuyết phục, có thể bỏ qua những lỗi nhỏ về kĩ năng hoặc một vài khía cạnh còn chưa sâu so với đáp án.
Chỉ cho điểm tối đa từng ý khi bài viết đảm bảo được yêu cầu về nội dung và kĩ năng.

Câu 2 (12 điểm)
I. Yêu cầu về kĩ năng:
- Biết cách làm bài nghị luận văn học tổng hợp các thao tác.
- Bố cục chặt chẽ, mạch lạc, diễn đạt trong sáng và cảm xúc, sáng tạo.
II. Yêu cầu về kiến thức:
        Bài viết cần đảm bảo những ý cơ bản sau:

Ý
Nội dung chính cần đạt
Điểm
1
Giới thiệu vấn đề nghị luận một cách rõ ràng, hấp dẫn.
0,5

2
 Giải thích vấn đề :
- Tác phẩm văn học gửi gắm tư tưởng, tình cảm của tác giả, vì vậy nó cho thấy quan điểm, cái nhìn của tác giả đối với con người và thời đại.
- Tiếng nói hiểu đời: là sự thấu hiểu, nhận thức được những vấn đề quan trọng về con người, thời đại và xã hội. Điều đó đòi hỏi ở người sáng tác một vốn sống phong phú và sự từng trải cũng như một tâm hồn đồng cảm và yêu thương con người sâu sắc.
2,0





3



 Phân tích và chứng minh qua hai đoạn trích “Trao duyên” và “Nỗi thương mình”:
- Nguyễn Du đã từng sống trong thời đại xã hội phong kiến có sự khủng hoảng, bế tắc và bản thân ông đã từng lưu lạc, sống khổ cực cùng nhân dân nên có điều kiện để tiếp xúc với nhiều cảnh đời bất hạnh và có những trải nghiệm sâu sắc (0,75 điểm).
- Mặt khác, ông còn am hiểu tâm lí con người, hiểu chỗ mạnh, chỗ yếu và mọi uẩn khúc, trạng thái tâm lí của con người, vì vây nhân vật của ông thường có những trạng thái tâm lí phức tạp, tinh tế (0,75 điểm).
- Chứng minh qua hai đoạn trích (6,0 điểm).
+ Trao duyên: Nguyễn Du hiểu bi kịch tình yêu tan vỡ, hiểu hoàn cảnh ép buộc nàng Kiều phải lựa chọn giữa hiếu và tình. Tác giả đã thể hiện sâu sắc mâu thuẫn nội tâm của Thuý Kiều trước khi trao duyên và sau khi trao duyên, đồng thời ca ngợi nhân cách cao đẹp của Kiều: vị tha và đức hy sinh (3,0 điểm).
+ Nỗi thương mình: Tác giả thấu hiểu và cảm thông với cuộc sống tủi nhục, đau đớn, ê chề của Kiều ở chốn lầu xanh và khát vọng muốn vươn tới một cuộc sống thanh cao của nàng. Qua đó, ta thấy được ý thức về nhân phẩm của nàng Kiều, tuy “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn( 3,0 điểm).
7,5










4
Đánh giá vấn đề:
- Tiếng nói “hiểu đời” của Nguyễn Du không chỉ bộc lộ trong hai đoạn trích mà còn thể hiện trong toàn bộ “Truyện Kiều” cũng như sự nghiệp sáng tác của thi sĩ. Tiếng nói ấy chứng tỏ ông là một nghệ sĩ lớn, một trái tim lớn luôn đồng cảm, thương yêu sâu sắc và thấu hiểu mọi nỗi oan tình của con người.
- Tiếng nói “ hiểu đời” đã làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Truyện Kiều”. Nó để lại bài học sáng tạo văn chương cho những người cầm bút hiện nay: Muốn có được tác phẩm văn học đích thực cần phải có vốn sống, từng trải và trái tim nhân ái bao la.
1,5
5
Khái quát vấn đề: sâu sắc, hấp dẫn, lắng đọng
0,5

*Lưu ý: Giám khảo chấm bài cần vận dụng linh hoạt đáp án, biểu điểm. Đặc biệt khuyến khích những bài viết có nhiều ý tưởng sáng tạo, cảm thụ văn chương tốt.
                                        
                                   -----------------Hết---------------


0 nhận xét:

Đăng nhận xét