Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Đề thi Học sinh giỏi Ngữ văn 10 tham khảo có đáp án



SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC GIANG
TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC GIANG




ĐỀ XUẤT ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI
CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI – ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
Năm học: 2013 - 2014
Môn Ngữ văn - Lớp 10

Câu 1 (8,0 điểm)
                   Có khi nào tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào trái tim bạn?
Câu 2 (12,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng:
Nhà văn chân chính là người suốt đời chỉ truyền bá một thứ tôn giáo: Tình yêu thương con người.
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên.
Bằng những hiểu biết về thơ văn Nguyễn Du và trích đoạn Trao duyên trong Truyện Kiều, hãy làm sáng tỏ ý kiến.




----------------------------- HÕt --------------------------------
Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm




Hä vµ tªn thÝ sinh:...............................................................
Sè b¸o danh: .......................................................................

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC GIANG
TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC GIANG




HƯỚNG DẪN CHẤM
ĐỀ XUẤT ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI
CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC DUYÊN HẢI – ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
Năm học: 2013 - 2014
Môn Ngữ văn - Lớp 10

Câu 1 (8.0 điểm) 

I. Yêu cầu về kĩ năng         

Biết cách làm bài nghị luận xã hội, bố cục mạch lạc, rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Dẫn chứng cụ thể, sinh động, văn giàu cảm xúc, ngôn ngữ ấn tượng, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ, diễn đạt...

II. Yêu cầu về kiến thức
        Dưới dạng một câu hỏi, đề bài nhằm kiểm tra người viết ở khía cạnh tình yêu Tổ Quốc, ý thức công dân trước một vấn đề thời sự nóng bỏng đang thu hút mối quan tâm của cả dân tộc và cộng đồng quốc tế: những tranh chấp về chủ quyền lãnh hải trên biển đông giữa ta và Trung Quốc xung quanh hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa.
1. Học sinh cần trình bày những hiểu biết, nhận thức của mình trên các khía cạnh:
a. Vị trí địa lí: Trường Sa, Hoàng Sa nằm ở đâu ngoài biển đông?
- Trường Sa: quần đảo tập hợp nhiều đảo lớn nhỏ nằm ở phía đông, đông nam, cách Cam Ranh – Khánh Hoà 248 hải lí, cách Vũng Tàu 305 hải lí (đi tàu thuỷ mất chừng hơn hai ngày đêm).
       - Hoàng Sa (bãi cát vàng): cũng là một tập hợp gồm trên dưới 30 đảo nằm về phía đông, cách thành phố Đà Nẵng 170 hải lí.
Cả hai quần đảo đều có vị trí chiến lược quan trọng (là phên dậu cho đất liền), giàu có về tài nguyên, khoáng sản.
          b. Lịch sử về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo:
- Khẳng định Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam.
- Tuy vậy, sau trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, phía Trung Quốc đã giành quyền kiểm soát toàn bộ các đảo. Hiện Hoàng Sa vẫn bị Trung Quốc chiếm giữ.
c. Những tranh chấp trên biển đông thời gian gần đây:
- Trung Quốc không chỉ xâm phạm chủ quyền của ta ở hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa mà còn có hành vi tranh chấp biển đảo với một số quốc gia khác: Hàn Quốc, Nhật Bản,…
- Trường Sa, Hoàng Sa đang gặp nguy hiểm, tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa hằng đêm đang dội vào trái tim của mỗi người con Việt Nam, cho dù họ đang cư trú ở đâu, trên dải đất hình chữ S hay ở bất kì quốc gia, châu lục nào.
d. Những chủ trương đường lối, chiến lược của Đảng, nhà nước, Quân đội… những phong trào vận động của các đoàn thể, những nghĩa cử đẹp của nhân dân và kiều bào nước ngoài hướng về Trường Sa, Hoàng Sa: (Góp đá cho Trường Sa, Tấm lưới nghĩa tình, Sưu tầm bản đồ để khẳng định chủ quyền của ta đối với hai quần đảo…).
e. Cuộc sống chiến đấu và lao động vất vả gian nan của bộ đội hải quân và nhân dân trên đảo (mỗi người lính, mỗi người dân trên đảo là một cột mốc sống, khẳng định chủ quyền lãnh hải thiêng liêng…); Vẻ đẹp của thiên nhiên trên đảo (cây bàng vuông, cây phong ba…); màu xanh từ bàn tay lao động của con người…
=> Tất cả những hiểu biết đó chính là câu trả lời thuyết phục nhất cho câu hỏi “Có khi nào tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào trái tim bạn?
2. Phê phán những thái độ thờ ơ, lãnh đạm, thậm chí vô cảm của mọi người, đặc biệt là giới trẻ đối với Trường Sa, Hoàng Sa.
3. Liên hệ bản thân (những cảm xúc, suy tư, những kế hoạch, dự định…) về Trường Sa, Hoàng Sa.
Câu 2 (12.0 điểm)
I. Yêu cầu về kỹ năng
Biết cách làm bài nghị luận văn học: kết cấu sáng rõ, lập luận chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, văn viết giàu cảm xúc.

II. Yêu cầu về kiến thức
Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau, song về cơ bản cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau:
1. Giải thích, bàn luận về ý kiến:
           a. Giải thích, cắt nghĩa:
      - Cắt nghĩa khái niệm: nhà văn chân chính
      + Nhà văn, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả nhà thơ, rộng hơn nữa là người nghệ sỹ nói chung.
+ Nhà văn chân chính: những người mang lý tưởng tiến bộ của thời đại, đại diện cho lương tri của loài người, sẵn sàng đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ công lí, lẽ phải, giàu tình yêu thương nhân ái, sẵn sàng xả thân cho cuộc đời và cho nghệ thuật.
- Truyền bá một thứ tôn giáo: tình yêu thương con người
Là cách nói nhằm khẳng định lí tưởng của nhà văn chân chính (sáng tác văn chương vì cuộc đời, để làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn, có nhiều công bằng, yêu thương hơn), đồng thời khẳng định giá trị, chức năng to lớn của văn học trong việc giáo dục, bồi đắp, thanh lọc tâm hồn, hướng thiện, phục thiện cho con người.
     => Ý kiến bàn về sứ mệnh của người nghệ sỹ, giá trị và chức năng của văn học nghệ thuật.
b. Bàn luận: Khẳng định đó là ý kiến đúng
       - Vì sao nhà văn chân chính lại lấy việc làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn làm mục đích sáng tác?
      + Vì họ là những người rất giàu tình yêu thương đối với cuộc đời (họ là “người cho máu”, là “nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”…)
      + Vì họ hiểu rõ khả năng, sức mạnh to lớn của văn chương. Họ đã dùng văn chương như một công cụ đắc lực để thực hiện lí tưởng nghệ thuật của mình!
- Họ thực hiện chức năng giáo dục (truyền bá tình yêu thương con người) bằng cách nào?
      + Ca ngợi, khẳng định những cái tốt đẹp của cuộc sống (những yêu thương, nhân ái, vị tha).
      + Lên án, tố cáo những cái xấu, cái ác…để bảo vệ con người khỏi những áp bức, bất công!
( Ví dụ: sáng tác của những nhà thơ, nhà văn nhân đạo vĩ đại: V.Huygô – Biển Đêm; Những người khốn khổ; Chiếc lá cuối cùng của Ô.Henri… Ở Việt Nam: Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ; Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều; Chinh Phụ Ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm… Đặc biệt là những sáng tác của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du…)
     2. Vận dụng vào tác gia Nguyễn Du và một trích đoạn
      a. Tác gia Nguyễn Du: Nguyễn Du được đánh giá là nhà thơ nhân đạo vĩ đại bởi mối quan tâm sâu sắc, tình yêu thương bao la của ông đối với con người.
      Đối tượng được quan tâm, thương xót:
      - Trong Truyện Kiều: là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh, cũng là con người nói chung “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
      - Thơ chữ Hán: vẫn là cảm hứng đó (thương xót cho nàng Tiểu Thanh, người ca nữ đất Long Thành, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ...) nhưng lòng thương xót đã mở ra với cả những thân phận bé nhỏ (người ăn mày, người hát rong…).
      - Văn chiêu hồn:
      + Thương yêu tất cả “thập loại chúng sinh
      + Thương nhất: vẫn là người phụ nữ - những người phải đem tài sắc của mình ra mua vui cho thiên hạ (những người ca kỹ…)
b.     Đoạn trích Trao duyên:
      - Tình yêu thương ở đây được dành cho nàng Kiều. Tiếng khóc ở đây là tiếng khóc cho tình duyên của Kiều với Kim Trọng bị tan vỡ. Tình yêu thương đó được thể hiện ở việc Nguyễn Du đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch đau đớn trong lòng Kiều khi phải dứt ruột trao mối duyên đẹp đẽ của mình cho Thuý Vân…
      - Bao trùm trong tâm tư của Kiều lúc này là hai trạng thái cảm xúc đau đớn (vì tình duyên tan vỡ) và lo lắng (lo Thuý Vân không nhận lời “chắp mối tơ thừa”). Tuy nhiên, hai nét tâm trạng đó có sự thay đổi trong suốt cuộc trao duyên:
      + Trong 12 câu thơ đầu (khi Kiều thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim): nỗi lo có phần át nỗi đau.
      + 14 câu tiếp (Thuý Kiều trao kỉ vật, tức là chính thức trao duyên cho Thuý Vân): Nỗi đau trào lên vì cảm giác mất mát chưa lúc nào cụ thể, rõ rệt như lúc này…
      + 8 câu còn lại: nỗi đau lên đến tột đỉnh (lúc này Kiều dường như không còn ý thức được sự hiện diện của Vân trước mặt mình. Kiều nói với Vân mà như nói với chính mình, ngôn ngữ đối thoại đã trở thành độc thoại…).
=> Có thể nói: Nguyễn Du đã viết về sự việc trao duyên của Kiều không phải với tư cách người ngoài cuộc mà với tư cách người trong cuộc, có cảm giác không phải Kiều trao duyên mà chính là Nguyễn Du đang phải trao duyên… Nguyễn Du như đứt từng khúc ruột cùng nỗi đau của Kiều, như rút Kiều ra từ trái tim mình…, đúng như Mộng Liên Đường chủ nhân nhận xét: “Nguyễn Du viết Kiều như có máu rỏ trên đầu ngòi bút, nước mắt thấm qua tờ giấy”.



                                                                 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét