KINH NGHIỆM PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN VĂN Ở
TRƯỜNG THPT KHÔNG CHUYÊN
Phan Thanh Vân-THPT Huỳnh Thúc
Kháng
1. Đặt vấn đề
1.1. Bàn về chuyện dạy văn trong
không khí văn chương buồn tẻ như ở nhà trường THPT hiện nay đã khó, nói đến
chuyện bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) môn văn lại càng khó hơn. Với tôi,
chuyện người thầy phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như người trồng
hoa. Bông hoa đẹp bởi bàn tay người chăm bón, nâng niu. Nhưng đâu phải khi nào
hoa cũng khoe sắc rực rỡ. Chỉ cần một cơn trở gió, một sự thay đổi tiết trời,
một sự lãng quên bất cẩn của người là hoa kém sắc, cây không trổ bông.
Có đồng nghiệp nói với
tôi rằng, giỏi văn chỉ là "thiên bẩm". Là người trực tiếp giảng
dạy môn văn đã nhiều năm ở phổ thông, tôi không nghĩ như vậy. Với tôi, người
thầy dạy văn trong trường học không phải là chất xúc tác trong quá trình biến
đổi chất! Năng khiếu và tri thức văn chương nói riêng, tri thức văn hoá
nói chung được bồi đắp theo năm tháng, gắn liền với sự nhạy bén của tố chất cá
nhân đã làm nên hồn văn ở học sinh.
1.2. Trong nhà trường THPT, nhất là ở những trường không chuyên, việc phát hiện
và bồi dưỡng học sinh giỏi như thế nào để đạt kết quả tốt, quả là một vấn đễ
không đơn giản. Trường Huỳnh Thúc Kháng chúng tôi, việc bồi dưõng HSG đã có sự
quan tâm và đầu tư nhất định. Hằng năm, qua các kỳ thi HSG tỉnh chúng tôi đã
gặt hái được những thành công đáng kể. Song đáng tiếc là số học sinh đạt giải
môn văn lại chưa nhiều. Điều này có nguyên nhân từ cả hai phía. Trước hết là từ
phía người thầy. Do phải bám sát việc thực hiện theo phân phối chương trình,
người thầy không có điều kiện đầu tư về chiều sâu trong giờ giảng; thời gian
tập trung bồi dưỡng cho HSG cũng không nhiều (thường thì những em được chọn đi
thi HSG chỉ được tập trung bồi dưỡng 8 - 10 buổi); Trong số thời gian hạn hẹp
đó, giáo viên bộ môn được phân công mỗi người dạy từ 2- 3 buổi; mỗi người dạy
theo cách riêng của mình. Về phía học sinh, ngoài vấn đề năng khiếu, do phải
học nhiều môn nên việc đầu tư thời gian tự bồi dưỡng môn văn không được nhiều,
quyết tâm đoạt giải của các em lại chưa cao. Thiết nghĩ, việc phát hiện và bồi
dưỡng học sinh giỏi nếu được đầu tư một cách thích đáng và và tiến hành bài
bản, kết quả sẽ khả quan hơn. Và kéo theo đó là hứng thú học văn sẽ phần nào
được cải thiện. Việc phát hiện bồi dưỡng năng khiếu văn chương, vì vậy, là việc
cần phải ý thức thường xuyên, trước hết là đối với những giáo viên trực tiếp
giảng dạy. Năng khiếu văn, càng được phát hiện và bồi dưỡng sớm bao nhiêu càng
tốt bấy nhiêu. Nhưng phát hiện và bồi dưỡng như thế nào cho có hiệu quả là cả
một vấn đề cần được trao đổi kỹ lưỡng...
2. Phát hiện Học sinh giỏi văn
2.1. Thế nào là học sinh giỏi văn?
HSG văn trước hết phải là những học sinh có
niềm say mê, yêu thích văn chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện thường
xuyên, liên tục và bằng ý thức tự giác trong học tập, như soạn bài cẩn thận chu
đáo, luôn chủ động tiếp thu kiến thức trong giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ
ý thức trách nhiệm trong các bài làm văn theo quy định của chương trình và
những bài luyện tập, thực hành rèn luyện kỹ năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say
mê sẽ giúp các em chịu khó tìm tài liệu để mở mang kiến thức. Và quan trọng hơn
là nó giúp học sinh phát huy được trí tưởng tượng, sự liên tưởng để sống sâu
sắc hơn với những cái mình đã đọc, đã học.
HSG
văn là những học sinh có những tư chất bẩm sinh, như tiếp thu nhanh, có
tri nhớ bền vững, có khả năng phát hiện vấn đề và có khả
năng sáng tạo (có ý tưởng mới trong bài làm).
HSG văn phải có vốn tri thức phong phú và
hệ thống, thuộc nhiều thơ văn trong và ngoài chương trình qua sự tìm đọc,
tích luỹ; phải có sự hiểu biết càng nhiều càng tốt về con người và xã hội.
Chẳng hạn nhờ có sự say mê tìm đọc
mà một học sinh đã biết thêm ý kiến của thầy giáo Mai Văn Hoan về cách hiểu câu
thơ: "Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng " là phải dựa vào đặc
điểm cây bồ đề - một loại cây cao chừng15m, búp non, phủ lông mịn màu vàng, hoa
nhỏ mọc thành chùm. Bồ đề có hai loại: loại hoa trắng gọi là cánh kiến trắng,
loại hoa vàng gọi la cánh kiến vàng. Loại cánh kiến hoa vàng thường mọc trên
vùng sỏi sạn ở độ cao 300-700 m. Nhựa của nó vừa là loại thuốc quí, vừa
để chế ra chất keo gắn kết rất chặt. Phải chăng vì những phẩm chất đó mà nhà
thơ Chế Lan Viên so sánh "Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng" - một
tình yêu đẹp được ươm mầm trong gian khổ, khó khăn và khăng khít keo sơn mãi
mãi.
Một trong những biểu hiện không thể
thiếu và thường khó giấu của HSG văn là rất giàu cảm xúc và thường nhạy cảm
trước mọi vấn đề, trước cuộc sống. Biểu hiện thường thấy ở những học sinh
này là dễ vui nhưng cũng rất dễ buồn trước những vấn đề đặt ra trong tác phẩm
và nhất là do sự tác động qua lời giảng của giáo viên. Thường thì đây là
những học sinh sống rất tình cảm, thích gần gũi với thầy cô, bạn bè và với mọi
người, hay bộ lộ quan điểm tình cảm và chiều sâu nội tâm của mình
thông qua cách phát biểu trực tiếp hoặc gián tiếp qua các bài viết. Sự nhạy cảm
ở các em luôn gắn liền sự thông minh và theo tôi thì sự thông minh của HSG văn
là sự thông minh của cả khối óc lẫn con tim.
HSG văn là những học sinh có vốn từ tiếng
Việt khá dồi dào, biết sử dụng chính xác chúng trong những trường hợp khác
nhau. Thường những em HSG văn đều có khả năng diễn đạt mượt mà, giàu cảm xúc,
giàu hình ảnh, diễn đạt hàm súc và có bản sắc riêng. Năng khiếu ở HSG văn
thường đi kèm với các biểu hiện bên ngoài như ánh mắt sáng, cách nói lưu loát,
gãy gọn bởi ngôn ngữ diễn đạt là cái vỏ của tư duy. Một học sinh hay nói
lay, nói lặp, nói dài dòng mà lượng thông tin ít, khả năng lựa chọn ngôn
ngữ trong diễn đạt hạn chế ... quyết không thể là một học sinh có tư duy
trong sáng và có năng khiếu học văn. HSG văn thường là những học sinh nắm
chắc các kỹ năng làm bài nghị luận.
2.2. Phát hiện học sinh giỏi văn
Từ quan niệm về HSG nói trên, việc phát hiện
và bồi dưỡng học sinh giỏi cần được tiến hành từ đầu lớp 10. Cơ sở của
việc tuyển chọn của chúng tôi là:
Thứ nhất, tìm hiểu kết quả của học sinh ở cấp THCS qua điểm tổng
kết, điểm thi tốt nghiệp, điểm thi học sinh giỏi và nếu có thể, tham khảo thêm
ý kiến giáo viên đã trực tiếp giảng dạy học sinh ở cấp học đó để nắm bắt
những mặt mạnh, mặt yếu của học sinh.
Thứ hai, chúng tôi xem bài
viết đầu tiên của học sinh (đặc biệt là học sinh lớp 10) như một dấu ấn để bắt
đầu cuộc hành trình phát hiện năng khiếu của học sinh. Công việc của người
thầy trong bài đầu tiên này là kiểm tra chất giọng, chất văn, cách nghĩ
của học trò. Những học sinh đạt được cả chất văn và ý văn trong một bài viết
không phải nhiều, không phải đều. Cái tật lộ ra ở từng học trò phải được nhận
biết, nét tài hoa của từng học sinh cần phải được ghi nhận và trân trọng. Khi
chấm bài, thầy cô không chỉ chú trọng những bài chu đáo, khuôn mẫu, đầy đủ...mà
còn quan tâm đến những bài có thể có chỗ chưa sâu, nhưng có chỗ độc đáo, sâu
sắc... phải sửa kỹ, phê kĩ, thật sự nghiêm khắc khi đánh giá và có nhật
kí chấm bài. Dĩ nhiên, một bài viết không thể đánh giá được quá trình nhưng đó
là sự khởi đầu để định hướng phát hiện, bổ sung ở những bài viết tiếp theo vì
việc tuyển chọn HSG không chỉ dừng lại ở một số bài viết mà phải theo dõi cả
quá trình học tập.
3. Bồi dưỡng HSG văn
3.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng HSG
Theo phân phối chương trình môn văn, số tiết
dạy chính khoá trong tuần của giáo viên ở trường THPT không chuyên, chỉ bằng
1/2 số tiết dạy của giáo viên trường chuyên. Thời lượng để dạy một tác phẩm
cũng ít hơn rất nhiều. Vì vậy, giáo viên không có điều kiện đi sâu, giảng kỹ
tác phẩm; học sinh ít có cơ hội để được ôn luyện bài bản như học sinh ở các
trường chuyên. Đây là một thực tế hết sức bất lợi cho cả thầy và trò trường
không chuyên trong những kì thi HSG tỉnh vì cả học sinh trường
chuyên và không chuyên đều cùng thi chung một đề (dĩ nhiên, những học sinh
trường chuyên là những học sinh đã được tuyển chọn kỹ lưỡng lúc vào trường lại
được học tập, bồi dưỡng có hệ thống sẽ có lợi thế hơn nhiều so với các em ở
trường không chuyên). Những khó khăn đó chính là bài toán nan giải đối với
những giáo viên giảng dạy ở trường không chuyên như chúng tôi. Tuy nhiên, dù
khó khăn bao nhiêu chúng tôi cũng phải tìm được một cách giải, một lối thoát
cho mình.
Sau khi đã Phát hiện và thành lập được đội
ngũ HSG công việc tiếp theo là xây dựng kế hoạch và thực
hiện kế hoạch bồi dưỡng HSG (Bao gồm cung cấp kiến thức, hướng
dẫn tự học và rèn luyện kỹ năng). Các khâu trên càng thực hiện
chu đáo bao nhiêu, kết quả càng tốt bấy nhiêu. Trong phạm vi SKKN này tôi chỉ
xin trình bày, trao đổi một vài kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng làm
văn cho HSG trong khoảng thời gian cho phép của nhà trường.
3.2. Các bước rèn luyện kỹ năng làm văn
3.2.1. Cách lựa chọn hướng ra
đề
Thực tế
giảng dạy giúp tôi ý thức một cách sâu sắc rằng, việc ra đề là khâu quan trọng
đầu tiên của quá trình phát hiện, kiểm tra, đánh giá và lựa chọn HSG. Đề đúng
và hay sẽ phân hoá được trình độ học sinh, giúp người thầy nắm trúng điểm mạnh,
điểm yếu của mỗi học sinh từ đó có thể đánh giá khách quan, chính xác,
công bằng năng lực, sự cố gắng vươn lên của học sinh; đồng thời tạo được niềm
tin và hứng thú học tập cho học sinh, khi hiểu được năng lực của mình. Ngược
lại, đề thiếu chính xác, sáo mòn không những không đánh giá được chính xác về
năng lực học sinh mà còn làm giảm thiểu hững thú học văn, tính độc lập
sáng tạo của học sinh. Và hậu quả của nó là việc rèn kỹ năng sẽ trở nên vô
nghĩa.
Theo dõi hướng ra đề thi học sinh giỏi các
cấp trong những năm qua, chúng tôi nhận thấy, đề thường có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa kiến thức về lý luận văn học và cảm thụ văn chương. Phạm vi thường
xoay quanh những vấn đề cốt lõi của chương trình như: chức năng và đặc trưng
của văn học nghệ thuật, phẩm chất của người nghệ sỹ, phong cách của nhà văn...
hoặc phân tích một tác phẩm văn học đặc sắc, trong đó không ít tác phẩm còn tồn
tại nhiều cách hiểu khác nhau (Chẳng hạn: Trao duyên, Hai đứa trẻ, Mùa xuân
chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Tống biệt hành, Thơ duyên...), hoặc phân tích một số tác
phẩm để nêu bật một vấn đề nào đó liên quan đến phong cách của một tác gia, hay
một đặc điểm quan trọng của tiến trình lịch sử văn học dân tộc... Nhìn chung,
tinh thần nhất quán của đề thi HSG là theo sát chương trình. Từ nhận thức
đó, trong quá trình ra đề rèn luyện kỹ năng cho học sinh, tôi thường tập trung
vào một số dạng đề cơ bản sau:
a. Đề kiểm tra khả năng cảm thụ tác phẩm
văn học
Dạng đề này phải gắn với những tác phẩm hay có trong chương trình.D
Ví dụ:
+ Nhận xét về nghệ thuật "tả cảnh ngụ
tình"của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, có ý kiến cho rằng:
" Thiên nhiên
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là thiên nhiên biết xúc động, biết cảm nhận
được mọi tâm trạng con người. Nó hiện lên như một người bạn tri kỷ, cùng chịu
đựng nỗi đau, cùng chia sẻ niềm vui với con người. "
Dựa vào những hiểu
biết của em về Truyện Kiều, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
+ Kết thúc
tác phẩm "Đời thừa", nhân vật Hộ tự xỉ vả
mình:
-Anh ...anh...chỉ là ...một thằng...khốn nạn!...
Còn nhân vật Từ nói:
-Không! ...Anh
chỉ là một người khổ sở... chính vì em mà anh khổ!
Từ kết thúc
trênT, anh (chị) phân tích và bình luận về tình cảm nhân đạo sâu sắc của nhà
văn Nam Cao được thể hiện trong tác phẩm.
+ Phân tích vẻ đẹp của dòng sông Bạch Đằng
trong bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu
Qua dạng đề này có thể kiểm tra được kiến
thức cơ bản của học sinh về tác phẩm: nắm hệ thống chi tiết, hình ảnh; hiểu
khái quát giá trị nội dung - nghệ thuật của tác phẩm; năng lực chọn lựa
và cảm thụ tác phẩm nghệ thuật ở nhiều cấp độ khác nhau: chỉnh thể tác phẩm -
hình tượng - chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ...
b. Đề kiểm tra kiến thức
về lý luận văn học và cảm thụ tác phẩm
Dạng đề này yêu cầu học sinh phải bao quát được những vấn đề cơ bản
của lí luận văn học và soi sáng nó vào những tác phẩm văn học cụ thể.
Ví dụ:
+Bàn về thơ, R.Tagore viết:
" Cũng như nụ cười và nước mắt, thực
chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong ". Anh
(chị) hãy:
1. Bình luận ý kiến trên.
2. Qua bài thơ "Bên kia sông Đuống"
của Hoàng Cầm, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên .
+Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: "tác phẩm văn học lớn hấp dẫn
người ta bởi cách nhìn mới, tình cảm mới, về những việc, những điều mà ai cũng
biết cả rồi" (Trích: Nhà văn nói về tác phẩm - NXBVH, 1998, Tr 260)
. Anh (chị) hãy bình luận câu nói trên và phân tích sức hấp dẫn của một tác
phẩm văn học mà anh (chị) cho là lớn.
Với dạng đề
này có thể kiểm tra được kiến thức của học sinh về những vấn đề lí luận văn học
cơ bản: đặc trưng văn học, đặc trưng thể loại, phong cách nghệ thuật, bản chất
của lao động nghệ thuật, giá trị và chức năng của văn học, vai trò của văn học
đối với đời sống v.v...đồng thời củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm văn
học, gắn lí luận văn học với việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Qua lí
luận văn học, học sinh có căn cứ khoa học để hiểu sâu hơn tác phẩm và ngược
lại, qua tác phẩm, học sinh hiểu và biết khái quát năng cao thành những vấn đề
lí luận văn học cơ bản.
c. Đề rèn luyện kỹ năng so sánh văn
học
Đây là một trong những dạng đề khó, nhưng học
sinh dễ có cơ hội để phát huy năng khiếu và sở trường riêng của một HSG.
Nó đòi hỏi học sinh vùa nắm được những vấn đề cụ thể, chi tiết, vừa biết khái
quát tổng hợp và lý giải vấn đề. Có thể so sánh tác phẩm cùng đề tài, cảm hứng
trong một giai đoạn văn học, của một tác giả hoặc khác giai đoạn, khác tác
giả...
Ví dụ:
+ Có ý kiến cho rằng, "Mời trầu" và
"Tự tình", hai bài thơ, hai giọng điệu khác nhau nhưng cùng một
"chất" Xuân Hương. Hãy phân tích và làm sáng tỏ ý kiến trên.
+So sánh sự giống và khác nhau giữa bài thơ
"Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến và " Đây mùa thu tới" của Xuân
Diệu.
+ So sánh bức tranh mùa thu trong thơ Xuân
Diệu qua bốn câu mở đầu bài "Thơ duyên" và "Đây mùa thu
tới".
+ Vẻ đẹp hình tượng người lính qua hai bài
thơ "Đồng chí " của Chính Hữu và "Tây Tiến" của Quang Dũng.
+ Phân tích đặc sắc riêng về cảm hứng đất
nước ở bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước"
(Chương V C -Trích Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm.
+ Những tương đồng và khác biệt trong cách cảm
nhận và thể hiện số phận người nông dân nghèo qua hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ
(Tô Hoài) và Vợ nhặt (Kim Lân).
3.2.2. Rèn luyện kỹ năng phân tích đề
Xét đến
cùng, việc dạy HS làm bài, rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học là một trong
những khâu quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến kết quả thi HSG. Đây là khâu
yếu nhất của HS (kỹ năng phân tích đề, lập dàn ý, dựng đoạn, liên kết đoạn, đưa
dẫn chứng, phân tích dẫn chứng...).
Trước hết, trong thời gian bồi dưỡng, giáo
viên cần cho học sinh làm quen với nhiều dạng đề thi HSG, đặc biệt là những
dạng đề có cách diễn đạt có thể gây ngộ nhận hoặc có thể hiểu yêu cầu đề không
thấu đáo. Chẳng hạn ở đề bài "Nét mới lạ về
hình tượng người lính qua bài Tây Tiến của Quang Dũng"
Học sinh khi phân tích đề đã nhận diện bản
chất của đề rất khác nhau. Một số em cho rằng yêu cầu của đề là chỉ ra nét độc
đáo H (lạ) của hình tượng người lính trong bài "Tây tiến"
trong toàn bộ thơ ca Việt Nam
viết về người lính. Chỉ có một số ít là hiểu đúng và hiểu trúng yêu cầu đề là
phải chỉ ra những nét độc đáo nhưng phải "mới" (chứ không phải
là " khác lạ") trong cách cảm nhận và lối thể hiện hình tượng
người lính của của QD. Muốn đạt được yêu cầu đó, bài làm phải bám sát bài thơ
Tây Tiến và những bài thơ viết về người lính trong thơ ca VN trước đó
và cùng thời (chứ không lấy dẫn chứng về những bài thơ cùng viết
về người lính ở cả những giai đoạn sau) .
Sau khi đã nhận diện đúng yêu cầu đề, việc
xác định thao tác nghị luận chỉ cần củng cố và hệ thống lại. Điều cần lưu ý với
học sinh là dù đề thi HSG có yêu cầu hay không, học sinh vẫn phải vận dụng
nhiều thao tác nghị luận khác nhau trong một bài làm (Phân tíchP, giải
thích, chứng minh, bình luận, so sánh...). Điều quan trọng là xác định
thao tác nào là chính, thao tác nào là bổ trợ. Nắm chắc yêu cầu này, học
sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ thống luận điểm hợp lý và khoa học cho bài
viết. Thông thường, luận điểm chính của bài viết thường nằm ở những
thao tác chính. Đây cũng là trọng tâm của bài viết. Những thao tác hỗ trợ
thường gắn với những ý phụ, ý bổ tsung, giúp cho nội dung bài viết hoà chỉnh,
trọn vẹn.
3.2.3. Rèn kỹ năng lập dàn ý
Bước đầu
tiên trong rèn kỹ năng lập dàn ý tôi thường yêu cầu học sinh phải lập dàn ý sơ
lược theo yêu cầu: +đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong
bài viết; + xác định mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của
mỗi luận điểm trong việc thể hiện các yêu cầu của bài; + sắp xếp các luận điểm
theo trình tự chặt chẽ, khoa học.
Để giúp học
sinh thực hiện được yêu cầu trên, tôi thường hướng dẫn các em đặt hệ thống câu
hỏi và tự trả lời: + câu hỏi tìm luận điểm: Yêu cầu trọng tâm của đề là gì? Vấn
đề cần giải quyết có thể triển khai ở những khía cạnh, phương diện nào? + Câu
hỏi xác định quan hệ và vai trò của luận điểm: Những khía cạnh, phương
diện ấy quan hệ với nhau như thế nào? Phương diện nào thể hiện tập trung
và rõ nét các yêu cầu trọng tâm của đề? + Câu hỏi sắp xếp luận điểm: Các
khía cạnh, nội dung cần nghị luận được trình bày như thế nào là tối ưu nhất?
Những nội
dung này học sinh được suy nghĩ trong vòng 25-30 phút, sau đó học sinh sẽ trình
bày ngắn gọn bằng hình thức nói (yêu cầu phải nói rõ căn cứ để nhận thức đề, đề
xuất luận điểm và sắp xếp ý). Cuối cùng giáo viên mới chữa hoàn chỉnh.
Chẳng hạn,
với đề văn: Trong kiệt tác TKiều, Nguyễn Du viết:
"Trải qua một cuộc bể
dâu
Những điều trông thấy mà
đau đớn lòng".
Anh (chị) hiểu như thế nào về câu thơ trên?
Bằng sự hiểu biết về Truyện Kiều và bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của ND, hãy làm
sáng tỏ ý thơ trên. /.
Ở đề trên, học sinh cần đề xuất được
các luận điểm chính sau:
- Giải thích ý nghĩa câu thơ của ND ("những điều trông
thấy""? "Đau đớn lòng"?...)
- "Nỗi đau đớn
lòng" trước "những điều trông thấy" của ND được thể hiện như thế
nào trong Truyện Kiều và ĐTTK?
- Đánh giá về giá trị của Truyện Kiều, về nỗi niềm ND được thể hiện
qua tác phẩm của mình về sức sống của tác phẩm ND...
Ở bước này,
phần làm việc của học sinh ở nhà là tiếp tục viết thành văn phần mở, kết
bài và các câu, đoạn chuyển ý.
Kỹ năng này
nếu được làm một cách ráo riết và nghiêm túc sẽ hình thành được ở học sinh khả
năng chủ động và độc lập tư duy trong học tập, khắc phục dần tình trạng học
sinh làm bài theo kiểu ngẫu hứng, nghĩ đến đâu viết đến đó, thậm chí làm
bài xong không biết mình viết gì. Tác dụng của khâu này là giúp các
em khi đọc đề thi có thể nhanh chóng hình thành hệ thống luận điểm, định
hướng kiến thức cho bài trong một khoảng thời gian ngắn (15-30 phút) đầu
giờ; bài viết của các em sẽ đủ ý và mạch lạc. Đây cũng là một
trong những biểu hiện của tính khoa học ở một bài văn HSG .
Qua thực tế
thấy rất rõ, các em trong đội tuyển HSG có khả năng nhận diện đề và lập
dàn ý khá nhanh và tự tin, có ý thức rõ rệt cần phải thiết lập hệ thống luận
điểm trước khi bắt tay vào viết bài.
3.2.4. Rèn luyện kỹ năng viết văn
Đây cũng là
kỹ năng quan trọng bởi nhận thức đề đúng, đề xuất luận điểm hợp lý, có kiến
thức phong phú chưa đủ. Muốn có một bài viết hay, học sinh phải biết
trình bày những hiểu biết, những rung động, suy nghĩ của mình một cách mạch
lạc, sáng sủa và có sức thuyết phục. Hơn nữa, việc đánh giá lại căn cứ vào
chính bài viết của học sinh.
Rèn kỹ năng
viết văn cho học sinh, tôi thường tiến hành theo các hình thức:
+Viết thành văn một đoạn ý: - Đoạn văn giải
thích; - Đoạn văn chứng minh một luận điểm trong bài (thường là luận điểm
chính); - Đoạn văn bình luận nâng cao.
+Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ
sở dàn ý đã được giáo viên chữa (khoảng 2 bài /1 tuần).
+Viết thành bài văn hoàn chỉnh trên lớp
trong thời gian quy định (180 phút). Yêu cầu trước hết đối với học sinh là phải
diễn dạt lưu loát rõ ý; chữ viết sạch sẽ, dễ đọc, không mắc lỗi chính tả, dùng
từ, viết câu. Từ đó nâng dần yêu cầu học sinh phải viết được những đoạn văn
hay, có cách dùng từ chính xác, sáng tạo, mới lạ, có giọng văn riêng, thể hiện
được dấu ấn, phong cách của người viết.
Để đạt được những yêu cầu đó, học sinh phải
tham khảo những bài văn mẫu do giáo viên lựa chọn, định hướng; Có thể học
tập cách viết của các bạn của mình (những đoạn, những ý mà giáo viên cho
là đúng và hay). Hình thức này rất có hiệu quả bởi đó là những đoạn văn,
bài văn hay do chính các em viết; Các em rất tự hào khi có được bài văn, đoạn
văn hay mà được thầy cô và bạn mình trân trọng.
Kỹ năng viết thành văn phải được tiến hành
thường xuyên bằng hình thức ra đề cho các em làm thêm ở nhà, giáo viên
tranh thủ chấm và chữa kỹ cho các em.
3.2.5. Chấm và chữa bài
Đối với các em HSG§, khi chấm bài giáo viên
phải chỉ ra được điểm mạnh, yếu cơ bản của mỗi bài; theo dõi và động viên kịp
thời mức độ tiến bộ của mỗi học sinh trong từng bài viết. Khi chấm, giáo viên
phải chỉ ra các lỗi cụ thể về dùng từ, viết câu, tổ chức ý... phân tích cho học
sinh hiểu nguyên nhân và định hướng cách chữa để học sinh có thể tự sửa chữa
các lỗi của mình. Và để tạo hứng thú, giáo viên có thể tổ chức hưỡng dẫn ọc
sinh đọc và chữa bài cho nhau.
4. Kết luận
4.1. Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng HSG trong
mấy năm qua giúp tôi nhận ra rằng, "thiên bẩm" hết sức quan trọng.
Song trên thực tế, không có một tài năng thiên bẩm nào tự nó có thể đi đến
thành công. Bởi thế, vai trò người thầy là hết sưc quan trọng. Những hệ thống
tri thức, con đường tiếp nhận văn chương, và cả những hứng thú, không ai có thể
làm thay được người thầy. Tâm hồn, tri thức, và những gợi mở của người thầy sẽ
được cụ thể hoá qua từng trang viết của học trò. Vì vậy, muốn có học sinh giỏi,
trước hết người thầy phải luôn có ý thức tích luỹ tri thức và kinh nghiệm giảng
dạy một cách nghiêm túc. Trong đó, sự nhảy cảm trong phát hiện năng khiếu học
sinh, phương pháp bồi dưỡng luôn là yếu tố hàng đầu để có được thành công.
4.2. Trên đây là một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng
học sinh giỏi của bản thân tôi được đúc rút từ thực tế giảng dạy và bồi dưỡng
HSG suốt trong nhiều năm qua. Có thể những điều này không còn mới mẻ với
những đồng nghiệp có bề dày kinh nghiệm, nhưng với tôi, đó là những điều tôi
tâm đắc và bước đầu đã có được những thành công. Rất mong nhận được sự đóng góp
chân thành của các đồng nghiệp để tôi có thể tiếp tục làm tốt công việc này
trong những năm học tiếp theo.
Vinh, tháng 5 – 2005
Tài liệu tham khảo
1.
18 chuyên đề văn THPT. Nguyễn Thị Hòa
2.
Những bài làm văn chọn học sinh giỏi quốc gia. Vũ Tiến Quỳnh
3.
Tuyển tập 10 năm đề thi olympic 30-04 môn văn.
4.
Muốn viết được bài văn hay. Nguyễn Đăng Mạnh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét