Chuyên đề :
Rèn kĩ năng làm bài cảm thụ văn
học trong
thế đối sánh cho học sinh giỏi môn ngữ văn
I.
Khái
luận về cảm thụ, so sánh- đối sánh văn hoc:
1. Cảm thụ văn học:
Cảm
thụ văn học là một hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn học. Mục đích của cảm thụ là cảm nhận, phát hiện, khám phá,
chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương nhằm khơi dậy, bồi dưỡng mỹ cảm
phong phú, tinh tế cho độc giả. Người đọc tri giác, liên tưởng, tưởng tượng
thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản, thể nghiệm giá trị tinh thần và
hứng thú với sắc điệu thẩm mĩ của nó. Đến với văn bản văn học bằng cả
trí tuệ và tình cảm, cả nhận thức và kinh nghiệm sẽ giúp người đọc mở được cánh
cửa thực sự đi vào thế giới của nghệ thuật. Rèn kĩ
năng cảm thụ văn học cho học sinh nhất là học sinh giỏi văn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây cũng là nhiệm vụ trọng
tâm của việc dạy văn trong nhà trường: vừa nâng cao tri thức vừa bồi dưỡng tâm
hồn, giúp các em có khả năng cảm thụ sâu sắc tác phẩm văn chương, góp phần đảm bảo tính nghệ thuật đặc thù của môn ngữ văn
trong trường PT.
2. So sánh- đối sánh văn học:
Khi xem xét một
sự vật A, nếu ta nhìn trực diện vào A thì nhận thức của ta về A chưa đầy đủ.
Nhưng khi ta đặt A bên cạnh B (A-B tương đồng) thì ta nhận thức về A toàn diện
hơn, thấu đáo hơn. Vậy so sánh là một thao tác của nhận thức trong đó ta đặt sự
vật này bên cạnh hay nhiều sự vật khác để dối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật
đó một cách toàn diện, kĩ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Trong thực tế đời sống
so sánh trở thành một thao tác phổ biến thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức,
đánh giá của con người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.
So sánh văn học là thao tác so sánh
được sử dụng trong lĩnh vực làm văn, được hiểu theo hai cấp độ:
-
Là một thao tác lập luận: nó là một trong
những thao tác chính của văn nghị luận (bên cạnh các thao tác; phân tích, bình
luận, bác bỏ…)
-
Là một kiểu bài trong nghị luận văn học:
là bài văn nghị luận sử dụng thao tác lập luận so sánh là chính. So sánh văn học
là đối chiếu hai hay nhiều hiện tượng văn học, hoặc là các mặt trong cùng một
hiện tượng văn học để thấy sự giống và khác nhau, từ đó mà thấy rõ đặc điểm và
giá trị của những hiện tượng văn học đó.
So sánh văn học
được hiểu như một cách tiếp cận văn học từ đó giúp cho học sinh phát triển được
các năng lực văn vốn có của bản thân. Đó là năng lực tiếp nhận cái hay, cái đẹp
trong văn bản văn học về nội dung và nghệ thuật. Đó là năng lực viết, năng lực
diễn đạt lại hiểu biết của mình về văn bản văn học để người khác hiểu và rung cảm
như mình; Đó là năng lực sử dụng ngôn ngữ chính xác tinh tế.
So sánh văn học
cũng giúp tư duy văn học nói riêng và tư duy nói chung trở nên sắc bến hơn,
tinh tế hơn. Khi muốn hiểu bản chất của một sự vật hiện tượng hay con người mà
ta xem xét bản thân sự vật, hiện tượng, con người ấy thì rất khó khăn, Chỉ khi
đặt trong thế đối sánh, chúng ta mới có thể hiêu rõ hơn bản chất, tìm hiểu một
cách thấu đáo các sự vật, hiện tượng.Mục đích
của so sánh:
nhằm chỉ ra sự hơn - kém hoặc sự giống- khác.
Ở đây ta không dùng khái niệm so sánh
mà dùng đối sánh, không nhằm chỉ ra sự hơn- kém mà nhấn mạnh sự
giống- khác. Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam điện tử( http://dictionary.bachkhoatoanthu.go...ua
A==&page=1 )
ĐỐI SÁNH: (A. match), việc thực hiện
so sánh hai đối tượng để rút ra những điểm giống hoặc khác nhau.
Khái niệm đối sánh cũng được nhìn nhận, xem xét ở hai góc độ: một là thao
tác nghị luận, hai là một phương pháp, cách thức trình bày ( tức là một kiểu
bài NL văn học )
2. Cảm thụ văn học trong
thế đối sánh:
Cảm thụ văn học trong thế đối sánh là
một biện pháp hữu hiệu để nâng cao năng lực cảm thụ văn chương cho học sinh môn
ngữ văn. Trong văn học
tuy cùng viết bằng một thể loại, cùng chung một đề tài, vào cùng một thời điểm…
nhưng mỗi tác phẩm nghệ thuật đich thực đều là một sáng tạo độc đáo, So sánh sẽ
làm nổi bật lên vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo ấy của mỗi tác phẩm. Trên cơ sở đó mới
có thể nhận xét, đánh giá được những đóng góp riêng của mỗi
nhà văn, mỗi hiện tượng văn học.
Khám phá cái hay, cái đẹp
cái độc đáo riêng biệt của các tác phẩm văn học, của phong cách tác giả, thời
đại…trong sự đối sánh đòi hỏi một năng lực cảm thụ tinh tế và một khả năng khái
quát tổng hợp, lí giải sâu sắc. Học sinh có cơ hội để phát huy
năng khiếu, sở trường, được thể hiện những cảm nhận riêng, những phát hiện độc
đáo, lí giải, đánh giá theo sự hiểu biết và cách nghĩ của mình một cách phong phú, đa dạng. Cảm thụ văn học trong thế đối sánh là một kĩ năng cần thiết, một chiếc chìa khoá
giúp các em mở cánh cửa đi vào thế giới của nghệ thuật.
Cảm thụ văn học trong thế đối sánh không phải là kiểu
bài so sánh đơn thuần. Nó bao gồm cả hai yêu cầu cảm thụ trong thế đối sánh và
đối sánh là để cảm thụ. Đối sánh không nhằm
chỉ ra sự hơn - kém mà nhằm thấy được sự giống- khác, nét riêng biệt, cái hay
cái đẹp, sự mới lạ của từng đối tượng cảm nhận.
- Có hai cách rèn kĩ năng
cảm thụ văn học trong thế đối sánh cho học sinh:
+ Thứ nhất: Cảm
thụ văn học trong thế đối sánh được coi như
một thao tác, cách thức bình văn. Thao tác nghị
luận so sánh đã được học một bài riêng trong chương trình Làm văn lớp 11. Tuy nhiên đối sánh để
cảm thụ văn chương có đặc trưng riêng. Vì vậy trọng tâm của việc rèn kĩ năng cảm thụ văn học trong thế đối
sánh cần được giáo viên tiến hành thường xuyên liên tục trong các giờ đọc văn và
tích hợp trong các bài tập tiếng Việt.
+ Thứ hai: Cảm
thụ trong thế đối sánh được coi như một dạng đề nghị luận văn học cần
được rèn kĩ năng qua các giờ làm văn, qua các dạng bài thường gặp trong các kì thi học
sinh giỏi, thi đại học. Dạng bài này chưa được học với tư cách một dạng văn
nghị luận văn học trong chương trình THPT.
Trong khuôn khổ chuyên đề này, chúng tôi
chỉ xin đi sâu vào cách thứ hai:
Rèn kĩ năng làm bài cảm thụ văn học trong thế đối sánh cho học sinh giỏi
văn
II. Dạng bài cảm thụ văn học trong thế đối sánh:
1. Vai trò của dạng bài cảm thụ văn
học trong thế đối sánh:
Xu
hướng ra đề thi đại học và học sinh giỏi những năm gần đây, dạng bài cảm thụ
trong thế đối sánh được đề cao và xuất hiện với tần suất lớn. Đây là một trong
những dạng đề hay và khó, rất phù hợp để tuyển chọn và phân loại học sinh nhất
là học sinh giỏi. Dạng đề này tránh được
sự nhàm chán của lối văn theo mẫu ( bởi không hề có sẵn), kiểm tra được một
cách khá toàn diện những kĩ năng và kiến thức cần có của học sinh: kiến thức
tác phẩm, kiến thức về tác giả, giai đoạn, kiến thức lí luận văn học…kĩ năng
phân tích bình giá, so sánh, lí giải…. Nó đòi hỏi học sinh vừa phải có năng lực
cảm thụ vừa có năng lực khái quát tổng hợp. Học sinh có điều kiện bộc lộ sự
tinh tế trong cảm nhận (có thể nhận ra được những nét khác biệt dù rất nhỏ, rất
mơ hồ) sự sắc sảo ( khả năng tách đối tượng thành những bình diện nhỏ để so
sánh) sự chắc chắn( trong việc huy động kiến thức văn học sử, lí luận văn học…
để đánh giá, lí giải). Nghĩa là đòi hỏi ở người học sinh giỏi văn không chỉ cần phẩm chất nghệ
sĩ ( sự tinh tế trong cảm nhận và thẩm định) mà còn chú trọng phẩm chất khoa học(
thể hiện ở sự chính xác, chặt chẽ, khúc triết và tính hệ thống trong tư duy và
trình bày bài viết).
Giới thiệu một số đề thi học sinh
giỏi quốc gia, thi đại học yêu cầu cảm thụ trong thế đối sánh gần đây:
Thi học sinh giỏi quốc gia:
+ Năm 1997: Cùng viết về đất nước và nhân dân trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, nhưng ba tác phẩm: Bên kia song Đuống của Hoàng Cầm, Đất
nước của Nguyễn Đình Thi, Việt Bắc của
Tố Hữu là ba thế giới hình tượng riêng, ba giọng điệu trữ tình riêng, chứa đựng
những kí thác riêng của mỗi hồn thơ. Anh( chị) hãy phân tích ba bài thơ trong
quan hệ đối sánh để chỉ ra nét riêng của mỗi tác phẩm.
+ Năm 2001. Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong
gia đình của Nguyễn Thi và Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu đều là
những truyện ngắn hay đã khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ. Anh( chị) hãy so sánh để làm rõ những khám phá, sang
tạo riêng của mỗi tác phẩm trong sự thể hiện chủ đề chung đó.
+ Năm 2002. Theo Xuân Diệu “ trong thơ nôm của Nguyễn Khuyến, nức
danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”. Hãy phân tích
những sáng tác trên trong mối quan hệ đối sánh để làm bật vẻ đẹp độc đáo của
từng thi phẩm, từ đó nêu vắn tắt yêu cầu đối với một tác phẩm văn học.
+)Bảng A - 2006:Chủ nghĩa nhân đạo là một trong những truyền thống
lớn nhất của văn học Việt Nam .
Qua việc phân tích, so sánh các tác phẩm Tự
tình (Hồ Xuân Hương), Hai đứa trẻ (Thạch
Lam) và Đời thừa (Nam Cao), anh (chị) hãy làm rõ những đóng góp riêng, độc
đáo của từng tác phẩm cho truyền thống này.
+) Bảng B năm 2006: Trong văn học Việt Nam , có nhiều sáng tác nổi tiếng về
mùa thu. Qua việc phân tích, so sánh các bài thơ Thu vịnh (Nguyễn Khuyến), Đây
mùa thu tới (Xuân Diệu), anh (chị) hãy làm rõ những nét chung và nhất là
những nét riêng của từng tác phẩm
+) Năm 2008: Cảm nhận của
anh/chị về hai đoạn thơ trong Nhớ con sông quê hương (Tế Hanh ) và Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm )
+) Năm
2009 :Thơ nữ viết về tình yêu thường thể hiện sâu sắc bản lĩnh và ý thức về
hạnh phúc của chính người phụ nữ. Hãy phân tích và so sánh bài thơ Tự tình( bài
II) của Hồ Xuân Hương và Sóng của Xuân Quỳnh để làm rõ nét chung và nét riêng
trong tâm sự về tình yêu của hai nữ tác giả ở hai thời đại khác nhau.
Thi đại học:
+) Cảm nhận của anh/chị về
những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh
Châu). (Đề
thi đại học khối C- 2009)
+) Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn viết về vẻ đẹp hai dòng sông trong Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ
Ngọc Tường.( Đề thi Đại học khối C- 2010)
+) Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “bát cháo hành” mà
nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo (Chí
Phèo – Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” mà nhân vật Từ
dành sẵn cho Hộ (Đời thừa – Nam Cao).
(Đề thi Đại học khối D- 2010)
2. Đối tượng của sự cảm thụ trong thế đối sánh:
- Kiểu bài này thường phải có ít
nhất hai đối tượng cảm thụ( thuộc hai tác phẩm) được đặt trong thế đối
sánh.
- Có thể yêu cầu cảm thụ trong thế
đối sánh toàn bộ tác phẩm
hay trên những bình diện khác nhau
của tác phẩm (tuỳ theo thể loại). Thi đại học thường yêu cầu cảm thụ trong thế
đối sánh một phương diện của tác
phẩm : nhân vật (đề thi đại học khối C-
2009) chi tiết nghệ thuật( Khối D- 2010), đoạn văn ( khối C- 2010), đoạn
thơ(thi đại học khối C- D) hoặc đề tài, tư tưởng, chủ đề, tình huống, cốt
truyện, nghệ thuật trần thuật, bút pháp nghệ thuật, cái tôi trữ tình, phong
cách nghệ thuật…
Đề thi
học sinh giỏi, thi quốc gia thường yêu cầu đối sánh toàn bộ tác phẩm.
- Các tác phẩm yêu cầu cảm thụ trong thế đối
sánh thường là: cùng đề tài , cảm hứng trong một giai đoạn văn học, của một tác
giả hoặc khác giai đoạn, khác tác giả, thuộc những trào lưu trường phái khác
nhau của nền văn học.
+ Có
thể so sánh cùng một tác giả: “Phong cách Nguyễn Tuân qua hai kiệt tác của hai
chặng đường sáng tạo Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà”
+ Có
thể so sánh các tác giả thuộc những trào lưu khác nhau: “Phong cách văn xuôi
của Thạch Lam và Vũ Trọng Phụng qua Hai đứa trẻ và trích đoạn Hạnh phúc của một tang gia- trích tiểu thuyết Số đỏ”
+Có
thể so sánh các tác phẩm
cùng giai đoạn, đề tài: “Vẻ đẹp hình tượng người lính qua hai bài thơ “Đồng chí“
của Chính Hữu và “Tây tiến” của Quang Dũng”
3. Mục
đích, yêu cầu của kiểu bài cảm
thụ văn học trong thế đối sánh:
Trước hết cần xác định dạng đề này đặt ra hai
yêu cầu song hành : cảm thụ trong thế đối sánh, đối sánh để nổi bật sự cảm
thụ. Vì vậy học sinh cần:
+ Thể hiện được những cảm nhận của mình
về cái hay cái đẹp, cái mới lạ độc
đáo của các yếu tố văn học cần cảm thụ.
+ Chỉ
ra được chỗ giống và khác nhau giữa các tác phẩm, các tác
giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả,
tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của
phong cách nhà văn cũng như tiến trình phát triển của giai đoạn, nền văn học.
+ Lí
giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học.
Tuy nhiên yêu cầu về kiến thức và kĩ năng của
kiểu bài này đối với thi đại học và thi học sinh giỏi có sự khác biệt:
Đối với
đề thi đại học: yêu cầu cảm thụ được đề cao( 4/5) yêu cầu so sánh và lí giải được đặt ra ở mức độ vừa phải. Mức điểm dành cho
phần so sánh chỉ là 0,5 / 5 điểm toàn phần của câu. Tiêu chí so
sánh giống- khác, nội dung- nghệ thuật chỉ cần nêu những phương diện căn bản,
thậm chí không cần lí giải nguyên nhân sự giống và khác nhau giữa các hiện
tượng văn học được cảm thụ. Điều này thể hiện rõ ngay ở yêu cầu của đề thi ( chỉ
nêu yêu cầu cảm thụ không đặt ra yêu cầu so sánh) Yêu cầu so sánh chỉ được thể hiện ngầm khi đặt
hai yếu tố văn học cần cảm thụ trong một đề văn.
Đối với
đề thi học sinh giỏi: yêu cầu cảm thụ và yêu cầu so sánh, lí giải được coi
trọng tương đương. Điều
này được thể hiện ngay trên đề bài ( phân tích và so sánh, chỉ ra nét chung,
riêng, độc đáo) và trong đáp án của Bộ
giáo dục đào tạo. Đặc biệt yêu cầu về phạm
vi, mức độ kiến thức, cách thức so sánh,
khả năng đánh giá lí giải đều là những bước tiến về chất so với yêu cầu thi
đại học.
4. Kiến thức, kĩ năng cần huy động
khi làm bài cảm thụ trong thế đối sánh:
+) Kiến thức về các tác giả, tác phẩm cần cảm thụ.
+) Kiến thức cơ bản về lịch sử văn
hoá- xã hội, thời kì giai đoạn văn học, các tác phẩm, tác giả tiêu biểu trong
từng thời kì đó… trên cơ sở hiểu biết đó phân tích để làm sáng tỏ những nét
chung và nét riêng biệt độc đáo.
+) Kiến thức lí luận văn học nhất là
phong cách tác giả, phong cách thời đại, trào lưu, đặc trưng thể loại, thi
pháp…Trên cơ sở đó lí giải những nét chung, nét riêng độc đáo. Đặc biệt qua
hiện tượng văn học được cảm thụ có thể nâng lên thành những vấn đề lí luận VH
cần thiết.
+) Phối hợp sử dụng nhiều thao tác
nghị luận. Đặc biệt học sinh cần vận
dụng phương pháp so sánh ngay khi phân tích cảm thụ từng tác phẩm. Thí sinh có
thể trình bày cảm nhận theo nhiều cách khác nhau ( chung- riêng hoặc lần lượt
từng tác phẩm…) nhưng cần làm rõ sự tương đồng và sự khác biệt về cả nội dung,
nghệ thuật đồng thời có khả năng mở rộng
liên hệ, so sánh với các tác phẩm, tác giả khác ngoài yêu cầu của đề một cách
hợp lý.
III. Rèn kĩ năng làm bài cảm thụ văn học trong thế đối sánh cho học sinh giỏi văn:
1.
Rèn kĩ năng phân tích đề:
1.1Nhận diện đề:
Trước hết, học
sinh cần nhận biết đâu
là đề văn cảm thụ trong thế đối sánh.
+ Những đề nêu rõ yêu cầu: phân tích và so
sánh, thấy được nét chung- riêng…như đề thi HSG Quốc gia năm 1996, 2001, 2002,
2006; năm 2009.
+ Những đề yêu cầu cảm nhận từ hai
đối tượng trở lên trong cùng một đề văn(đề thi HSG Quốc gia năm 2008, các đề
thi đại học khối C- D)
Cần phân biệt dạng đề tổng hợp và dạng đề so sánh
khi cùng có hai tác phẩm cần nghị luận trở lên trong một đề văn.
Khảo sát 2 đề văn sau
Đề1: Cảm hứng về đất nước là một
trong những cảm hứng sâu đậm của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm
1945. Qua bài thơ Đất nước của Nguyễn
Đình Thi và trích đoạn Đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề 2: Cảm hứng về đất nước là một cảm
hứng chủ đạo trong thơ Việt Nam
giai đoạn 1945-1975. Hãy làm rõ những nét riêng trong nội dung và cách biểu
hiện cảm hứng ấy trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và đoạn
trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Tuy cùng ngữ liệu: 2 tác giả, 2 bài
thơ, cùng lời dẫn nhưng mục đích của hai đề rất khác nhau. Đề 1 là đề tổng hợp-
nhằm làm nổi bật cảm hứng cơ bản của giai đoạn văn học( yếu tố so sánh chủ yếu
để thấy cái chung), đề 2
là đề đối sánh nhằm nổi bật sự khám phá sáng tạo riêng của từng nhà thơ .
Cần phân biệt: thao tác so sánh và
kiểu bài đối sánh.
Ví dụ ở đề bài: “ Nét mới lạ về hình tượng
người lính trong bài Tây Tiến của Quang Dũng”.
Đây không phải là dạng bài cảm thụ trong thế đối sánh vì chỉ có một đối
tượng cảm thụ nêu trong đề bài. Học sinh phải bám sát vào bài thơ Tây tiến, khám
phá những đặc điểm- cảm nhận những nét đẹp của hình tượng người lính trong tác
phẩm. Học sinh cũng cần huy động hiểu biết về những bài thơ viết về người lính
trong thơ ca Việt Nam
trước đó và cùng thời, dùng thao tác so sánh làm bật lên những nét độc đáo, nét
“mới” trong cách cảm nhận và lối thể
hiện hình tượng người lính của Quang Dũng. So sánh chỉ là thao tác bổ trợ.
1.2 Xác định yêu cầu của đề:
-
Trước hết cần xác định đối tượng cảm thụ- đối sánh, phạm vi kiến thức cần huy động sao cho đúng và trúng.
Muốn vậy cần rèn cho các em thói quen
đọc kĩ đề, gạch chân những từ quan trọng.
Có thể đưa ra một loạt đề cảm thụ trong thế đối sánh cùng về hai tác giả, tác
phẩm, chỉ thay đổi cách hỏi, câu lệnh để rèn cho học sinh kĩ năng xác định
trọng tâm vấn đề.
Bài tập: Chỉ ra sự giống và khác nhau
trong nội dung, cách làm của 3 đề văn sau.
Đề 1: Thơ Hàn Mặc Tử và Nguyễn Bính
rất khác nhau nhưng họ đều là những nhà thơ mới giai đoạn 1932-1945. Bằng việc
cảm nhận hai bài thơ Mùa xuân chín
của Hàn Mặc Tử và Mùa xuân xanh của
Nguyễn Bính trong thế đối sánh hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
Đề 2: Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều
là những nhà thơ lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1932-1945 nhưng thơ họ lại rất khác nhau. Bằng việc cảm nhận hai bài
thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử và Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính trong thế
đối sánh hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
Đề 3: Dấu ấn phong cách thơ Nguyễn
Bính và Hàn Mặc Tử qua hai thi phẩm cùng viết về mùa xuân: Mùa xuân chín(Hàn Mặc
Tử) và Mùa xuân xanh (NBính)
Kiến thức cần huy động đề làm 3 đề
trên không chỉ 2 tác phẩm( Mùa xuân
chín, Mùa xuân xanh), 2 tác giả ( Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử ) mà còn kiến thức về
phong trào thơ mới - nhà thơ mới giai đoạn 1932-1945.
- Trước một đề văn cần đặt các câu hỏi:: Tại sao đề lại yêu cầu cảm thụ các đối tượng
đó trong thế đối sánh? giữa chúng có điểm gì chung lớn nhất (cùng đề tài, cảm
hứng, thể loại, giai đoạn… ) sự khác biệt nổi bật giữa chúng? Từ sự
giống và khác ấy, đề văn muốn chúng ta khẳng định vấn đề gì ( về đặc điểm giai
đoạn, trào lưu, bản chất nghệ thuật, sự sáng tạo của người nghệ sĩ, tiến trình
phát triển của lịch sử văn học?... )Những
câu hỏi ấy sẽ giúp học sinh xác định mục đích, yêu cầu của đề văn và thâm ý của
người ra đề.
Nên yêu cầu học sinh tự thành lập các
đề văn cảm thụ trong thế đối sánh( thiết
lập ngân hàng đề) ; tập hợp thành những chủ đề lớn, nhỏ: Đất nước, Tình yêu,
Người lính, Số phận con người, Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ…. Giáo viên hướng
dẫn học sinh cách thiết lập các đề theo dạng : Cùng viết về…nhưng mỗi tác phẩm, tác giả… lại có những cách khám phá,
thể hiện mới mẻ đặc sắc… chứ không đơn thuần : nêu cảm nhận của anh chị
về 2 nhân vật, 2 đoạn văn, đoạn thơ, 2 chi tiết… Các em sẽ
thấy rằng không thể tuỳ tiện ngẫu nhiên đặt các tác phẩm trong thế đối sánh.
Hai đối tượng nên cùng loại( gần nhau) để nhận thức được những điều khác biệt.
Theo quan niệm mới hiện nay tất cả đều có thể so sánh: một đám ma( trong Hạnh phúc một tang gia- trích “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng)với một đám
cưới ( trong Một đám cưới của Nam Cao hoặc trong Vợ
nhặt của Kim Lân).
Tuy nhiên cần xác định được điểm chung, tiêu chí và mục đích của sự đối sánh trước khi ra đề, sẽ tránh sự khập
khiễng, gượng ép khi đặt các đối tượng
cảm thụ quá khác xa nhau trong một đề
văn.
1.3 Xác định thao tác nghị luận cơ bản:
Một bài văn cần phối hợp rất nhiều
thao tác nghị luận song cần lưu ý học sinh xác định đâu là thao tác nghị luận
chính, đâu là thao tác nghị luận bổ trợ.
Trong bài cảm thụ trong thế đối sánh thao tác cơ bản là cảm thụ ( phân
tích) và đối sánh ( so sánh) . Có nhiều học sinh chỉ nặng về đối sánh mà quên
mất cảm thụ, có học sinh thì ngược lại. Xác định được thao tác chính học sinh
sẽ có cơ sở để xây dựng hệ thống luận điểm hợp lí và khoa học cho bài viết.
2.
Rèn kĩ năng lập ý- lập dàn ý:
2.1 Các bước lập ý:
- Bước 1: Trước hết,
cần phân tách đối tượng thành nhiều bình diện để cảm thụ và đối sánh.
Trên đại thể, hai bình diện bao trùm là nội dung tư tưởng và hình
thức nghệ thuật. Tùy từng đối tượng được yêu cầu so sánh mà
có cách chia tách ra các khía cạnh nhỏ khác nhau. Cách chia tách phải
căn cứ vào đặc trưng
loại thể hoặc các khía cạnh của nội dung tư tưởng: ngôn
từ, hình ảnh, chi tiết, kết cấu, âm hưởng, giọng điệu, đề tài, chủ
đề, tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật
- Bước 2: Nhận xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiện chính xác, có tiêu chí so sánh rõ ràng, diễn đạt thật nổi bật, rõ nét, tránh chung chung, mơ hồ.
- Bước 2: Nhận xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiện chính xác, có tiêu chí so sánh rõ ràng, diễn đạt thật nổi bật, rõ nét, tránh chung chung, mơ hồ.
- Bước 3: Đánh giá,
nhận xét, lí giải nguyên nhân của sự giống và khác nhau. Bước này
đòi hỏi những tiêu chuẩn rõ ràng, nền lí luận vững chắc, kiến thức văn học sử sâu rộng, tránh những suy
diễn tùy tiện, chủ quan, thiếu sức thuyết phục.
2.2
Cách thức trình bày ý:
Vì là một bài văn nghị luận nên bố cục của bài
văn cảm thụ trong thế đối sánh cũng có 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
* Mở bài: dẫn dắt, giới thiệu 2 yếu tố văn học cần cảm thụ.
Có nhiều cách mở bài nhưng học sinh giỏi nên
lựa chọn cách mở bài gián tiếp. Có thể
dẫn dắt từ vấn đề lí luận văn học như đặc trưng văn học, phong cách nghệ
thuật( Lêônit Lêônôp “Mỗi tác phẩm văn
học phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nôi dung”, “Văn học
và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” Nguyễn
Minh Châu…) Có thể mở bài từ đề tài (
người lính, người mẹ, tình yêu, người phụ nữ, đất nước…). Có thể mở bài từ giai
đoạn văn học, trào lưu…Điều quan trọng
là dẫn dắt từ vấn đề chung của
hai yếu tố cần cảm thụ, tránh giới thiệu lần lượt từng yếu tố ngay từ phần mở đầu đã không tạo nên sự liên kết chặt chẽ.
*Thân bài: Phân tích cảm thụ hai đối tượng trong thế đối sánh
Cách trình bày, triển khai ý bài cảm thụ trong
thế đối sánh thông thường có hai cách là nối tiếp và song song.
- Cách nối tiếp: lần lượt phân tích, cảm thụ từng đối tượng sau đó chỉ ra cái giống và khác nhau. Cụ thể mô hình của phần thân bài như sau:
- Cách nối tiếp: lần lượt phân tích, cảm thụ từng đối tượng sau đó chỉ ra cái giống và khác nhau. Cụ thể mô hình của phần thân bài như sau:
+ Phân tích- cảm thụ đối tượng
thứ nhất
+ Phân tích- cảm thụ đối tượng thứ 2
+ So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật
+ Lý giải sự khác biệt: cần dựa vào bối cảnh xã hội- văn hóa; hoàn cảnh cảm hứng phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học… để lí giải
+ Phân tích- cảm thụ đối tượng thứ 2
+ So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật
+ Lý giải sự khác biệt: cần dựa vào bối cảnh xã hội- văn hóa; hoàn cảnh cảm hứng phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học… để lí giải
Cách này dễ làm nhưng
khó hay, dài, nhiều khi trùng lặp ý và sắc thái so sánh dễ bị chìm. Sự liên kết giữa các đối tượng cảm thụ thường
rất lỏng lẻo, rời rạc, làm mất đi tính chỉnh thể của bài viết. Do yêu cầu mang
tính phổ thông nên đáp án thi đại học thường
trình bày theo cách này.
- Cách song song tức là song hành đối
sánh trên mọi bình diện của hai đối tượng theo hai mảng lớn giống- khác
đồng thời lí giải nguyên nhân của sự giống, khác đó. Với học sinh giỏi nên chọn cách trình bày này. Trước
hết phải sử dụng thao tác đồng nhất- tìm cái chung( tư duy tổng hợp) sau
đó mới đi tìm cái riêng- thao tác phân
tách( tư duy phân tích). Cách này hay nhưng khó, nó khắc phục được tất cả
các nhược điểm của cách thứ nhất.
Nhưng điểm mạnh sẽ thành
điểm yếu nếu học sinh không có tư duy chặt chẽ lô gíc để tách vấn đề, không có
sự tinh tế trong việc lựa chọn các yếu tố để cảm nhận, lời bình không biết
nhấn, biết lướt. Nếu vậy bài viết hoặc sẽ rất rối hoặc thiên về liệt kê so sánh
đối chiếu khô cứng.
* Kết bài: Khái quát lại những nét tương đồng và khác
biệt cơ bản, nêu cảm nghĩ của bản thân.
Có nhiều cách kết bài nhưng có thể lựa chọn cách Mở- Kết tương ứng. Mở
bài dẫn dắt từ đâu nên kết lại ở đó ( lí luận văn học, đề tài, chủ đề, giai
đoạn…) nhất là mở ra những vấn đề LLVH mới.
3. Rèn kĩ năng diễn đạt, hành văn
khi làm bài cảm thụ trong thế đối sánh.
- Cái khó của dạng bài cảm thụ trong thế đối sánh không chỉ nằm ở phần phân
tách luận điểm mà còn nằm ở sự chọn lựa yếu tố tương ứng để phân tích bình giá nổi bật nét
riêng của hai yếu tố văn học cần cảm thụ.
Điều quan trọng học sinh cần biết lựa chọn, phân tích, cảm nhận các chi tiết,
hình ảnh, câu văn đoạn văn tiêu biểu để làm sáng tỏ những khám phá riêng, nổi
bật vẻ đẹp riêng độc đáo. Nhiều em sa vào phân tích ôm đồm hoặc ngược lại liệt
kê đơn thuần thiếu sự cảm thụ, chỉ nặng về đối sánh, không xuất phát từ tác phẩm
mà từ những ý niệm định sẵn. Cũng không
nên tham lam phân tích cảm thụ quá nhiều chi tiết sẽ làm cho bài viết ôm đồm nặng
nề. Cần biết nhấn biết lướt, lựa chọn thật đắt, bình thật tinh, nổi bật lên vẻ đẹp
nét đặc sắc của mỗi yếu tố văn hoc, tác phẩm và phong cách tác giả.
- Sự chọn lựa những yếu tố tương ứng nằm trong hai tác phẩm để
phân tích bình giá trong thế đối sánh sẽ tạo nên sự liên kết ngầm. Song về diễn
đạt cần có sự liên kết chặt chẽ mới làm cho sự so sánh được nổi bật, sắc nét . Nếu
chỉ mô tả một chiều ý so sánh sẽ bị chìm đi. Vì vậy trong bài văn cảm thụ trong thế đối sánh ta thường dùng các
kiểu câu ghép với các cặp liên từ: Tuy- nhưng,
Nếu – thì; Trong khi A… thì
B; A thì… B thì… hoặc sử dụng các cụm từ:
khác với, giống như, không giống như…
- Điều đáng lưu ý, đối sánh để thấy sự giống- khác, chứ không nhằm
chỉ ra sự hơn- kém vì vậy cần tránh cực đoan trong diễn đạt như: quá đề cao đối
tượng này mà hạ thấp đối tượng khác; cảm thụ đến chi tiết nào cũng cho là hay
nhất, mới nhất, xuất sắc nhất.. biến lời diễn đạt thành sáo ngữ, ngoa từ. Cần
cho các em tập viết những đoạn văn nhỏ, chấm, chữa cụ thể. Có thể cho các em
chấm chéo nhau để học hỏi và rút kinh nghiệm về kĩ năng diễn đạt.
II.
Đề luyện tập:
Đề
1: Thiết lập hệ
thống ý cho đề văn sau:
“ Cảm nhận vẻ đẹp và sự độc đáo của hai hình tượng Sông Đà và Sông
Hương để thấy được nét phong cách riêng của từng tác giả trong hai bài tuỳ bút
“ Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân và bút kí “
Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” ( trích- của Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Với đề này học sinh cần biết đặt hai hình tượng trong thế đối sánh
để làm nổi bật vẻ đẹp và sự độc đáo
không chỉ của hai hình tượng mà còn cả hai phong cách nghệ thuật.
Bước 1: xác định những điểm chung (nét tương đồng )của sự khám phá vẻ đẹp hai hình tượng Sông Đà, sông Hương trong hai
tác phẩm của hai tác giả.
+ Điểm chung thứ nhất về đề
tài: Sông Đà và Sông Hương là những dòng
sông nổi tiếng đã gắn bó sâu sắc với con người Việt Nam . Cả hai con sông đều được khám
phá ở vẻ đẹp trữ tình và mạnh mẽ hoang sơ.
+ Điểm chung thứ hai về thể loại : cả hai tác giả cùng viết tuỳ bút về
những dòng sông . Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của HPNT thực sự là một thiên tuỳ bút- một áng văn
xuôi tự sự trữ tình.
+ Điểm chung thứ ba là nét
phong cách căn bản của hai tác giả: Cả hai đều là những cây bút tài hoa, uyên bác. Hai tác giả
đều huy động kiến thức địa lí, lịch sử, văn hoá sâu rộng, đều thể hiện cái tôi trữ tình khi khám phá vẻ
đẹp của những con sông quê hương đất nước, kết đọng trong đó tình yêu xứ sở. Đó
là sự gặp gỡ của những tâm hồn Việt, những tài năng tuỳ bút bậc thầy.
Bước 2: phân tách đối tượng
thành nhiều bình diện để so sánh, tìm ra nét riêng- sự khác biệt .
Từ 2 bình diện lớn: nội dung- nghệ thuật, căn cứ vào đối tượng cụ
thể ta có thể phân tách thành những phương diện nhỏ hơn. Muốn làm được điều này
học sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học về tác phẩm - thể loại. Về hình tượng các con sông
nên tách thành 4 bình diện sau: Cảm hứng-
điểm nhìn khám phá; vẻ đẹp hình tượng; nghệ
thuật thể hiện hình tượng( chất liệu, giọng điệu, ngôn ngữ, biện pháp nghệ
thuật…) vai trò ý nghĩa của hình tượng.
Khi rèn kĩ năng có thể tạm
thời kẻ bảng để học sinh dễ dàng đối sánh:
Sự khác biệt
|
Sông Đà
|
Sông Hương
|
Cảm hứng- điểm nhìn khám
phá
|
|
|
Vẻ đẹp hình tượng
|
|
|
Nghệ thuật xây dựng hình
tượng
|
|
|
Vai trò, ý nghĩa của hình
tượng
|
|
|
Học sinh có thể triển khai theo các ý- các tiêu chí đối sánh ( ngang)
hoặc lần lượt theo từng hình tượng(
dọc)
Ví dụ triển khai ý 2 khám phá vẻ đẹp riêng của hai dòng
sông trong hai thiên tuỳ bút theo lối đối sánh, ta có thể đi vào những ý chính
sau :
* Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân khai thác hai mặt nổi bật tạo nên
hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của dòng sông, khám phá con sông đầy tiềm năng
cho sự phát triển của đất nước.. Sông Đà hiện lên đầy cá tính, lúc như một bầy
thuỷ quái ( hung bạo), lúc như một cố nhân( trữ tình).
+ Sông Đà hung bạo từ bờ sông, ghềnh đá, hút nước đến thác đá…
+ Sông Đà mang vẻ đẹp trữ tình thơ mộng : từ dáng sông, màu nước cho
tới khung cảnh ven bờ…
* Nếu như Sông Đà là một con
sông- một sinh thể, thì sông Hương lại được HPNT ví như một người gái đẹp –
lúc là cô gái Digan phóng khoáng và man dại, khi là người con gái kín đáo dịu
dàng trong tình yêu, lúc là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Dòng Hương đã hiện lên với nhiều vẻ đẹp khác
nhau trong trang bút kí- tuỳ bút của HPNT.
+ Vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên
+ Vẻ đẹp lịch sử
+ Vẻ đẹp văn hoá, thi ca
Bước 3: Lí giải sư tương đồng và nét khác biệt đồng thời
khái quát phong cách của từng tác giả thể hiện qua hai bài kí.
Đây là một yêu cầu của đề
bài. Học sinh cần phải huy động kiến thức lí luận , kiến thức về tác gia văn học để trình bày
khái niệm về phong cách, các phương diện biểu hiện cụ thể trong phong cách nghệ
thuật của hai tác giả.
Đồng thời đây cũng là phần lí giải tại sao lại có sự
tương đồng và nét khác biệt trong cách khám phá thể hiện hình tượng hai dòng
sông. Nguyên nhân do thời đại, bối cảnh văn hoá xã hội hầu như không có. Yếu tố
chính làm nên sự độc đáo của hai hình tượng Sông Đà, Sông Hương trong hai bài
kí là phong cách nghệ thuật của 2 tác giả.
Cả hai đều là những nhà văn
viết tuỳ bút thành công. Tuỳ bút Nguyễn Tuân giàu chất kí, chất truyện. Bút kí
của HPNT giàu chất trữ tình- chất tuỳ bút. Cùng có phong cách tài hoa uyên bác,
nhưng Nguyễn Tuân tài hoa kiêu bạc, HPNT tài hoa sâu lắng. Nguyễn Tuân đến với
sông Đà như đến với một sự thử thách để bộc lộ cái Tôi độc đáo tài hoa, thể
hiện cảm hứng mãnh liệt trước cái đẹp, cái khác thường phi thường thì HP đến
với sông Hương như một sự tương giao linh diệu của một tâm hồn Huế, gắn bó tha
thiết với dòng sông với xứ Huế, với chiều sâu văn hoá của đất quê hương. Nguyễn
Tuân là phù thuỷ ngôn từ, câu chữ co duỗi nhịp nhàng, giàu giá trị tạo hình,
dựng cảnh tả người đặc sắc. HPNT giàu liên tưởng, tưởng tượng, lối văn đậm chất
thơ, thiên về thể hiện cảm xúc suy ngẫm mang chiều sâu văn hoá.
Đề 2: Lập dàn ý chi tiết cho đề văn sau ( chọn viết một
luận điểm thành đoạn văn cảm thụ trong thế đối sánh)
"Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt
nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất
thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ
dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là
hắn là một kẻ vô ích, một người thừa". (Đời thừa - Nam Cao)
"Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm!
Ôi Cửu Trùng Đài!". (Vũ Như Tô – N HT)
Nỗi day dứt của Hộ và tiếng kêu đau đớn tuyệt vọng của Vũ
Như Tô gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về tấn bi kịch của người nghệ
sỹ trong xã hội cũ? Những vấn đề nào đã được đặt ra qua tấn bi
kịch của họ?
Đáp án:
I. Giới thiệu khái quát vấn đề : Kịch Vũ
Như Tô được viết năm 1941. Truyện ngắn Đời thừa được Nam Cao
sáng tác năm 1943. Mặc dù khai thác hai đề tài khác nhau, viết bằng
hai thể loại khác nhau, nhưng tư tưởng của họ đã gặp nhau ở nhiều
điểm: mối quan tâm đến số phận của người nghệ sỹ tài năng; những suy
tư về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời; vấn đề phẩm chất của
người nghệ sỹ...Tất cả đều được thể hiện qua tấn bi kịch của hai
nhân vật: Vũ Như Tô và Hộ.
II. Triển khai vấn đề:
1. Phân tích tấn bi kịch của hai nhân vật:
1.1. Giống nhau:
a. Nhân vật là người trí thức- nghệ sĩ chân chính:
* Mặc dù
sống ở hai thời đại cách xa nhau, song cả hai đều là nghệ sỹ: VNT là
một kiến trúc sư, còn Hộ là một nhà văn.
* Phẩm chất:
- Trong tư
cách người nghệ sỹ: ở họ đều cháy bỏng một niềm đam mê nghệ
thuật, khát khao sáng tạo và cống hiến cho đời bằng tài năng của mình.
+ Vũ Như Tô:
khao khát điểm tô đất nước, đem hết tài ra xây cho đất nước một tòa
đài hoa lệ, thách cả những công
trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công, dân ta nghìn thu còn hãnh
diện. Trong lớp kịch thứ 8, VNT bộc lộ khát vọng nghệ thuật của mình: Không, ta chỉ có... bồng lai xuất hiện.
+ Hộ: ấp ủ
một hoài bão: viết được một tác phẩm làm mờ hết những tác phẩm cùng ra một thời, sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng
trên hoàn cầu.
- Trong tư
cách một con người: họ đều là những nhân cách đáng trọng:
+ Vũ Như Tô: có
phẩm chất của một đấng trượng phu, nhân cách cứng cỏi, thái độ coi thường danh
lợi.
+ Hộ: một người
giàu lòng nhân ái, vị tha, coi tình thương là lẽ sống ở đời, tôn thờ lẽ sống
tình thương.
b. Số phận bi kịch:
Qua tiếng kêu
đau đớn của Vũ Như Tô Trời ơi! Phú cho ta
cái tài làm gì?... và nỗi day dứt
của Hộ Chao ôi! Hắn đã viết những gì? ...
Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Người đọc có thể nhận
ra: Họ đều lâm vào bi kịch đổ vỡ lý tưởng, vỡ mộng đau đớn, bi kịch phải sống
một cuộc đời thừa.
Nguyên nhân
dẫn đến tấn bi kịch của hai nhân vật: đều dựa trên mâu
thuẫn giữa:
+ Niềm khát
khao sáng tạo, khát khao khẳng định tài năng, khẳng định ý nghĩa sự tồn tại của
cá nhân
+ Hoàn cảnh,
điều kiện sống không cho phép họ thực hiện khát vọng của mình.
Tức là giữa
Mộng lớn – Thực tế. Thực đè nát mộng.
Diễn biến và
kết cục: cả
hai đều bế tắc, tuyệt vọng. Hộ đau đớn, khóc nức lên trong giây phút tỉnh ngộ,
hối hận. VNT thốt lên tiếng kêu đau đớn, chấp nhận ra pháp trương, chết theo
công trình NT của mình.
c. Thái độ của nhà văn:
- Cảm thông với
số phận của người nghệ sĩ trong cuộc đời cũ.
- Đồng cảm với
ước mơ, khát vọng sáng tạo của họ.
- Lên tiếng đòi
quyền được sống, được sáng tạo cho người nghệ sĩ, tố cáo XH ngột ngạt, bóp nghẹt
sự sống con người,
1.2. Khác nhau:
a. Tính chất bi kịch khác nhau.
* Bi kịch của Hộ (xem lại KTCB)
- Trước khi gặp
Từ, Hộ chưa có bi kịch vì lúc ấy Hộ chỉ có một mình “Đói rét không có nghĩa lí gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng”.
- Mâu thuẫn bắt
đầu nảy sinh từ khi Hộ ghép cuộc đời mình vào cuộc đời Từ, bởi từ đó Họ có cả
một gia đình để chăm lo. Để làm tròn bổn phận một người chồng, một người cha,
Hộ phải cho in nhiều cuốn văn viết vội
vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc
Cuộc sống cơm áo không cho phép Hộ đầu tư công sức vào nghệ thuật. Hộ phải
“viết để sống”, lấy văn chương làm kế mưu sinh. Cách viết đó không đáp ứng,
thậm chí đi ngược lại yêu cầu của nghệ thuật chân chính “Văn chương không cần… chưa có”. Ý thức được điều đó, Hộ vô cùng đau
khổ “Chao ôi! Hắn đã viết những gì?...
một người thừa”. Hắn xỉ vả mình, dằn vặt mình, phỉ nhổ mình đau đớn. Hộ tha
hóa. Hộ trượt dài trên dốc suy thoái nhân cách.
- Bi kịch của
Hộ là bi kịch tiếp nối và nhân đôi, bi kịch hai trong một. Bởi nó kéo theo bi
kịch thứ hai: bi bịch tình thương của một con người: chà đạp lên chính đạo lí
mà mình đã tôn thờ. Hộ đau đớn.
Tóm lại bi
kịch của Hộ là bi kịch của nhà văn vì gánh nặng cơm áo. Bi kịch sống thừa, sống
mòn, chết mòn vì miếng cơm manh áo. Đây là điều NC day đứt đau đớn, qua nhiều sáng
tác.
* Bi kịch của VNT (xem lại KTCB)
- Mâu thuẫn dẫn
đến bi kịch: đó là mâu thuẫn giữa niềm khát khao sáng tạo, quan niệm nghệ thuật
cao siêu thuần tuý với lợi ích trực tiếp, thiết thực của đời sống nhân dân (mâu
thuẫn thứ hai của vở kịch).
- Sự hình thành
mâu thuẫn: Mâu thuẫn nảy sinh từ khi Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của Đan
Thiềm, quyết định xây Cửu Trùng Đài.(Lí do: sưu thuế tăng, thợ giỏi bị bắt bớ,
người bị tai nạn, bị chết nhiều vô kể…).
- Diễn biến của
mâu thuẫn: Mâu thuẫn được phát triển qua các hồi các lớp kịch
Ở những hồi
trước: VNT
say mê với công trình NT, không nhận ra Đài cửu trùng xây trên xương máu của
ND. Nảy sinh thêm những mâu thuẫn nhỏ: giữa VNT – thợ cả; VNT – người thợ xây
đài. VNT bị đá đè, thợ bị chết hàng loạt, bỏ trốn, VNT sai bắt, đánh đập. Họ
nguyền rủa, oán thán VNT, VNT vẫn không tỉnh ngộ.
Hồi cuối: 9
lớp kịch:
+ Năm lớp kịch
đầu: mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô, thợ thuyền và nhân dân chưa bị đặt vào thế đối
đầu trực tiếp. Nó chỉ mới thể hiện gián tiếp qua lời của các nhân vật trung
gian: Đan Thiềm, bọn nội giám…
+ Đan Thiềm
nhắc lại những lời oán thán của nhân dân “Vua
xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man
di oán giận là vì ông, thần dân trách móc là vì ông…”. VNT không tin.
+ Lời kết tội
của bọn nội giám: việc sinh ra quân phản loạn trong triều cũng là vì Vũ Như Tô.
VNT không tin. Vẫn cho là mình đúng.
+ Kịch tính
được đẩy lên từ lớp kịch thứ 6 (khi quân khởi loạn kéo vào nơi Vũ Như Tô làm
việc, gươm giáo sáng loà). Và càng căng thẳng hơn ở lớp kịch 7,8 khi quân khơỉ
loạn xúc phạm Vũ Như Tô, Đan Thiềm, truy bắt lũ cung nữ, cuối cùng bắt trói cả
Đan Thiềm và Vũ Như Tô.
+ Mâu thuẫn
được đẩy cao trào, đỉnh điểm ở lớp kịch thứ 9 với hai sự việc: Nhân dân đốt phá
Cửu Trùng Đài; Vũ Như Tô bị bắt và giải ra pháp trường.
Tóm lại bi
kịch của VNT là bi kịch của người nghệ sĩ đam mê sáng tạo NT xa rời lợi ích ND.
b. Kết cục của mỗi số phận, cách giải quyết bi kịch
nhân vật
- Tấn bi kịch
của Hộ tuy đau đớn, dai dẳng và thầm lặng, nhưng Hộ còn được sống (sống thừa).
Kết thúc TP Hộ bế tắc, hai vợ chồng khóc oán trách cuộc đời.
- Tấn bi kịch
của Vũ Như Tô: đau đớn kiểu khác:
+ Không thực
hiện yêu cầu của Lê Tương Dực -> bị giết, bị tru di cửu tộc (chết vào tay Lê
Tương Dực).
+Thực hiện yêu
cầu của Lê Tương Dực->chết bởi tay quân khởi loạn và nhân dân
=> Đằng nào
cũng bế tắc! Người nghệ sỹ thiên tài này rơi vào cảnh cùng đường tuyệt lộ (chỉ
có một con đường chết).
c. Thái độ của nhà văn trước tấn bi kịch của hai
nhân vật:
- Nam Cao: thấy
rõ nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Hộ là do xã hội thực dân phong kiến. Qua tấn
bi kịch của Hộ, Nam Cao cảm thông với người trí thức, lên án xã hội thực dân
phong kiến đã bóp chết ước mơ, tước đi ý nghĩa sự sống chân chính của con
người.
- Nguyễn Huy
Tưởng: không giải thích được “Than ôi! Vũ
Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua
cùng một bệnh với Đan Thiềm!”. Nhưng trong lời đề tựa đã hàm thái độ: cảm
thông với bi kịch người nghệ sĩ có tài, xa rời lợi ích ND, không xác định được
vị trí của mình, bị tiêu diệt. VNT chết mà không nhận ra sai lầm của mình.
Cả ND và VNT
đều có cái phải và không phải. Những kẻ giết Vũ Như Tô: Phải: ở chỗ đã không
đồng tình với việc xây Cửu Trùng Đài. Không phải; ở hành động phá một công
trình nghệ thuật to lớn; giết một nhân tài kiệt xuất. Còn Vũ Như Tô: Phải ở
hoài bão, ước mơ, khát vọng. Không phải: ở con đường thực hiện lý tưởng (mượn
uy quyền, tiền bạc của bạo chúa); ở lòng đam mê nghệ thuật một cách mù quáng
(thứ nghệ thuật Vũ Như Tô đam mê là thứ nghệ thuật cao siêu thuần tuý, nó xa
rời thậm chí đối lập với cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ). Đáng tiếc thay
cho số phận người nghệ sĩ dưới chế độ tàn bạo.
2. Những vấn đề đặt ra qua tấn bi kịch của hai nhân
vật:
- Số phận của những nghệ sỹ tài năng trong xã hội
cũ: xã hội
ấy không có đất dụng võ, đất sống cho những người tài. Đây có lẽ cũng là tâm sự
sâu kín của hai người nghệ sỹ Nguyễn Huy Tưởng và Nam Cao.
- Cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ nghệ thuật –
cuộc đời:
+ Đặt cuộc đời
lên trên nghệ thuật->Người nghệ sỹ phải sống một cuộc sống thừa
+ Đặt nghệ
thuật lên trên cuộc đời -> Người nghệ sỹ có thể sẽ đánh mất nhiều thứ quý
giá khác (nhân phẩm - Hộ, thậm chí phải chết như Vũ Như Tô).
- Vấn đề phẩm chất nghệ sỹ:
+ Chữ tài phải đi liền với chữ tâm (không thể
nói Vũ Như Tô có một cái tâm và một cái trí sáng suốt khi mượn uy quyền tiền
bạc của bạo chúa để thoả mãn khát vọng nghệ thuật của mình).
+ Cái đẹp phải đi liền với cái thiện thì mới là
cái đẹp đáng được tôn thờ.
III. Kết luận: Cả
hai tác phẩm đều rất xuất sắc
- Không chỉ đặt ra những vấn đề của đời sống mà
còn rút ra những bài học có ý nghĩa sâu sắc cho những người làm nghệ thuật; đều
được viết bởi những ngòi bút tài hoa, điêu luyện.
- Thể hiện sự
thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân của tầng lớp trí thức đương thời.
Đề về nhà:
Đề 1: Có ý kiến cho rằng, "Mời
trầu" và "Tự tình", hai bài thơ, hai giọng điệu khác nhau
nhưng cùng một "chất" Xuân Hương. Hãy phân tích và làm sáng tỏ ý kiến
trên.
Đề 2:
Phân tích đặc sắc riêng về cảm hứng đất nước ở bài thơ "Đất nước" của
Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" (Chương VI -Trích Mặt đường khát vọng)
của Nguyễn Khoa Điềm.
Đề 3:
Số phận con người là vấn đề muôn thuở của văn chương. Nhưng khám phá số phận
con người là điều mới mẻ riêng biệt- bộc lộ tài năng, tấm lòng và tư tưởng của
nhà văn. Qua sự cảm nhận sô phận con người trong hai tác phẩm : Vợ nhặt của Kim Lân và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu, hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng
làm bài cảm thụ trong thế đối sánh chúng tôi luyện tập
cho học sinh lớp văn. Còn rất nhiều hạn chế,
thiếu sót mong được học tập và trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét