RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH
CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN
Rèn kĩ năng làm văn cho học
sinh là yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc đối với giáo viên dạy học môn Ngữ văn ở các cấp học.
Đối với
cấp THPT, yêu cầu đó lại càng đặt ra bức thiết hơn, bởi đối tượng học sinh
THPT, đặc biệt là học sinh lớp 12, chuẩn bị tốt nghiệp ra trường, bước chân vào
giảng đường Đại học – Cao đẳng làm bài tập tiểu luận, khoá luận, luận văn… nếu
không có kĩ năng sẽ không thể làm được. Thực tế đã chứng minh, có những sinh viên,
thậm chí đã tốt nghiệp, đi làm, đơn giản nhất là một lá đơn cũng không biết viết
cho đúng qui cách.
Ở cấp
THPT, học sinh được rèn nhiều kĩ năng, trong đó người giáo viên cần đặc biệt chú
trọng rèn kĩ năng làm một bài văn nghị luận xã hội và nghị luận văn học để học
sinh làm các bài kiểm tra định kì, tham gia các kì thi 8 tuần, thi học kì, thi
lên lớp, thi Tốt nghiệp, thi học sinh giỏi Tỉnh, Quốc gia, thi Đại học – Cao đẳng.
Vì đây là hai câu bao giờ cũng xuất hiện trong các đề thi, đặc biệt là câu nghị
luận văn học bao giờ cũng chiếm số điểm cao hơn so với câu nghị luận xã hội. Nếu
câu nghị luận văn học chỉ là về một tác phẩm/đoạn trích… nói chung đơn
giản, học sinh dễ dàng làm được. Nhưng nếu là nghị luận về nhóm tác phẩm/đoạn
trích… thì sẽ khó và phức tạp, đòi hỏi học sinh tư duy tổng hợp - so sánh. Dạng
đề này rất phù hợp với đối tượng học
sinh giỏi thi Tỉnh, thi Quốc gia, học sinh thi Đại học – Cao đẳng môn Ngữ văn. Và những
câu này được coi như một thử thách đối với học sinh. Ngay cả với giáo viên, việc
biên soạn được một câu và đáp án dạng đề này hay và chuẩn chỉ, quả thực không đơn
giản, dễ dàng, đòi hỏi rất nhiều tâm trí.
Đi sâu
tìm hiểu, nghiên cứu dạng đề này nhiều năm qua, chúng tôi đã rút ra được một số
kinh nghiệm trong việc giảng dạy và biên soạn đề, đáp án. Sau đây, tôi xin được
mạnh dạn trao đổi, chia sẻ cùng các đồng nghiệp, đồng môn trong Hội. Kính mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của
các Quí Thầy, Quí Cô.
I.
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH - MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
-
Kiểm tra kiến thức về nhóm tác giả, tác phẩm / đoạn trích, nhân vật, hình ảnh, chi tiết…
- Khả
năng tổng hợp, so sánh, tư duy
lô-gíc, chặt chẽ…
- Khả
năng lập luận khúc chiết, mạch lạc, rõ ràng…
- Khả
năng lí giải sâu sắc, thuyết phục
- Khả
năng đánh giá khái quát
- Khả
năng kết hợp nhiều thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…
Từ đó,
ta thấy dạng đề Tổng hợp
- So sánh, nghị luận về nhóm
tác phẩm / đoạn trích yêu cầu, đòi hỏi học sinh cao hơn rất nhiều so với những
đề nghị luận về một tác phẩm / đoạn trích, vì vậy, rất thích hợp với đối
tượng là học sinh giỏi và học sinh thi Đại học - Cao đẳng, chủ yếu là khối C,
D. Thực tế nhiều năm gần đây, đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh, cấp Quốc gia, đề
thi Đại học - Cao đẳng đã ra vào dạng đề Tổng hợp - So sánh và đề của những năm đó đã được dư luận đánh giá
rất cao.
II.
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – CÁC KHẢ NĂNG CÓ THỂ GẶP
- So
sánh nhóm tác giả cùng giai đoạn hoặc khác giai đoạn ; cùng thể loại hoặc khác
thể loại…
- So
sánh nhóm tác phẩm / đoạn trích của nhóm tác giả hoặc của cùng một tác giả ;
cùng thể loại hoặc khác thể loại…
- So sánh
nhóm tác phẩm/đoạn trích của nhóm tác giả cùng đề tài hoặc cùng cảm hứng trong
một giai đoạn hoặc khác giai đoạn…
- So
sánh nhóm nhân vật trong một tác phẩm / đoạn trích hoặc nhóm tác phẩm / đoạn trích…
- So
sánh nhóm chi tiết hoặc nhóm hình ảnh, hình tượng… trong nhóm tác phẩm / đoạn
trích…
- So
sánh nhóm giai đoạn văn học…
- So
sánh nhóm đoạn văn hoặc đoạn thơ…
-…
Ví dụ một số đề :
Đề 1 : Phong vị dân gian trong hai bài thơ Tương tư (Nguyễn Bính) và Việt
Bắc (Tố Hữu) ?
Đề 2 : So sánh sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của hai
nhà văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua hai đoạn trích Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Đề 3 : Hình ảnh sông Đà, sông Hương qua hai đoạn trích Người lái đò
Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Đề 4 : Phân tích trong thế đối sánh hai nhân vật
Mị và A Phủ trong Vợ chồng A Phủ (Tô
Hoài).
Đề 5 : Vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng
vào cuộc sống của các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn
Vợ nhặt (Kim Lân) ?
Đề 6 : Hình tượng người phụ nữ trong hai truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt ?
Nhận xét
- Đối tượng nghị luận : Hai tác giả /
tác phẩm / đoạn trích / nhân vật / hình ảnh…
- Thao tác nghị luận : Vẫn là các thao
tác phân tích, chứng minh, giải thích,… nhưng khác ở chỗ là trên cơ sở tổng hợp
- so sánh
ở nhóm tác phẩm / đoạn trích.
-
Phạm vi dẫn chứng : Không phải là một tác phẩm / đoạn trích mà là hai bài thơ Tương tư và Việt Bắc / hai truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ và Vợ nhặt
- Dạng đề : Tổng hợp – So sánh
III.
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – NGUYÊN TẮC
- Trong
đề bài xuất hiện từ hai tác giả, tác phẩm, nhân vật, hình tượng, đề tài, hình ảnh,
chi tiết… trở lên phải nghĩ ngay đến dạng đề Tổng hợp - So sánh.
- Đã là
Tổng
hợp - So sánh thì nhất thiết
Thân bài phải có 2 luận điểm
: giống – khác / chung - riêng… tuỳ yêu cầu cụ thể của từng đề mà đặt tiêu đề
cho phù hợp.
- Đã là
Tổng
hợp - So sánh thì nhất thiết
phải chỉ ra nguyên nhân giống – khác / chung – riêng.
IV. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – CÁCH LÀM
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề
Giáo
viên hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề về :
- Đối tượng nghị luận : còn có thể gọi là vấn đề cần nghị luận, nội dung cần nghị luận.
- Thao tác nghị luận : Thông thường là các thao tác phân
tích, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : bao giờ cũng phải từ hai tác giả /
tác phẩm / đoạn trích, nhân vật / hình tượng / hình ảnh / chi tiết… trở lên.
Ngoài ra, có thể liên hệ mở rộng tới các tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật,
hình tượng, hình ảnh, chi tiết… khác có những nét tương đồng hoặc đối lập.
- Dạng đề : Tổng hợp
- So sánh
2. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý
Giáo
viên hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho
dạng đề Tổng hợp - So sánh với 4 bước
cơ bản nhất :
Bước 1. Giới thiệu : Nhóm tác giả,
tác phẩm, đoạn trích (nếu đề yêu cầu) và đối tượng nghị luận
Bước 2. Tổng hợp - So sánh theo yêu cầu của đề (luận điểm đảm bảo nguyên tắc giống - khác / chung – riêng)
Bước 3. Lí giải
nguyên nhân giống – khác / chung – riêng
Bước 4. Đánh giá khái
quát
3. Hướng dẫn học sinh viết từng phần
- Phần
giới thiệu (Mở bài) : Giáo viên hướng
dẫn học sinh giới thiệu khái quát về nhóm tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật…
và đối tượng (vấn đề, nội dung) cần nghị luận.
Lưu
ý : Nếu phần giới thiệu nhiều thông
tin, có thể đẩy bớt xuống đầu phần Thân
bài, tránh Mở bài quá dài, gây
cảm giác nặng nề.
- Phần Tổng hợp - So sánh theo yêu cầu của
đề (Thân
bài) : Giáo viên hướng dẫn học sinh viết từng luận điểm, luận cứ, từng ý lớn,
ý nhỏ… Trong quá trình viết có thể liên hệ mở rộng tới các tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật, hình tượng, hình ảnh,
chi tiết… khác có những nét tương đồng hoặc đối lập… đảm bảo tất cả đều phải bám sát, phù hợp yêu cầu của đề, tập trung làm
rõ yêu cầu của đề, tuyệt đối tránh xa đề, lạc đề, dàn trải, lan man…
-
Phần lí giải nguyên nhân giống – khác / chung – riêng : có thể do những
yếu tố khách quan, chủ quan ; do hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh cụ thể ; do đặc
trưng thể loại, khuynh hướng, trào lưu ; do yêu cầu của văn học nghệ thuật nói
chung, do cá tính sáng tạo của nhà văn nói riêng…
- Phần đánh giá khái quát (Kết
bài) : Giáo viên hướng dẫn học sinh vừa khái quát, vừa nâng cao vấn đề,
tránh qua quýt, sơ sài, đại khái.
4. Hướng dẫn học sinh viết thành bài hoàn chỉnh
Giáo
viên hướng dẫn học sinh viết thành bài hoàn chỉnh trong thời gian qui định (khoảng
90 -> 100 phút/180 phút đề thi học sinh giỏi / đề thi Đại học - Cao đẳng) sau đó chấm, chữa,
trả để học sinh rút kinh nghiệm. Giáo viên cần sửa kĩ, chấm sát, tránh chấm chữa
qua loa, đại khái hoặc cho điểm cao so với chất lượng thực sự của bài viết gây ảo
tưởng cho học sinh, việc rèn luyện sẽ không đạt hiệu quả mong muốn.
V. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH –
VÍ DỤ
MINH HOẠ
Đề 1
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ
Ngọc Tường là hai nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo và đặc biệt sở trường
về thể tuỳ bút, bút kí.
Qua hai đoạn trích Người
lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông ? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), theo Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1,
anh/chị hãy so sánh sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của hai
nhà văn.
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai tác giả, hai tác phẩm, cùng thể
loại, khác giai đoạn, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ
thuật của hai nhà văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt
tên cho dòng sông ?
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả, hai tác phẩm, vấn đề cần
nghị luận
2. Khái niệm phong cách nghệ thuật của nhà văn : Là cái nhìn độc đáo của
nhà văn đối với đời sống được biểu hiện thành các phương tiện hình thức nghệ
thuật tương đối bền vững, lặp đi lặp lại như : Thể loại, loại cốt truyện, kiểu
kết cấu, kiểu nhân vật, câu văn, giọng
điệu, nhịp điệu, hình ảnh…
3. So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường qua Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
3.1. Giống
a. Tài hoa : Luôn nhìn cuộc sống, sự vật, con người ở phương diện, góc độ văn
hoá thẩm mĩ nên phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của hiện thực cuộc sống.
* Nguyễn Tuân
+ Nhìn sông Đà ở góc độ
thẩm mĩ để phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình của con sông:
- Dáng sông : Nhìn từ trên
cao, sông Đà được ví như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, một áng tóc
trữ tình tuôn dài, tuôn dài… rất mềm mại, nên thơ.
- Màu nước : Có 2
màu thay đổi theo mùa : Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ
chín đỏ, đều là những gam màu đẹp trong hội hoạ.
- Hai bên bờ sông, khi đã
hết thác ghềnh, có sự gợi cảm rất đặc biệt : Hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa, ở đó có chất thơ Đường, thơ Tống, gợi cho ta nhớ đến thơ
Tản Đà…
+ Nhìn người lái đò ở góc
độ nghệ sĩ để phát hiện ra tài năng trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh :
- Sông Đà hung bạo nhưng người lái đò vẫn tự do đi lại trên sông. Tự do là khi nắm được qui luật tất yếu. ở
đây là qui luật của đá và nước sông Đà. Người lái đò nắm chắc được qui luật
tất yếu của đá và nước sông Đà nên trên thác hiên ngang một người lái đò
Sông Đà có tự do.
- Để chứng minh tài nghệ
của người lái đò, tác giả đã hư cấu một cuộc vượt thác sông Đà :
/ Sông Đà hung bạo bày trùng
vi thạch trận để tiêu diệt tất cả những gì đi trên sông.
\ Đối lập với sông Đà hung
bạo là người lái đò đơn độc, chỉ với một thứ vũ khí thô sơ là cái bánh lái nhưng đã
vượt qua được trùng vi thạch trận của sông Đà với 3 vòng liên tiếp, với rất
nhiều cửa tử, cửa sinh lập lờ,… để lại sau lưng tiếng reo hò bất lực của dòng
sông.
* Hoàng Phủ Ngọc Tường : Nhìn sông Hương ở góc độ văn hoá thẩm mĩ để phát hiện ra vẻ đẹp của
con sông. Sông Hương :
- Có vẻ đẹp phóng
khoáng, man dại, rầm rộ, mãnh liệt, một bản trường ca của rừng già khi nó
đi qua giữa lòng Trường Sơn.
- Có vẻ đẹp dịu dàng và
trí tuệ khi sông Hương trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá
đất đế đô.
- Có vẻ đẹp biến hoá, hư
ảo như phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím”.
- Có vẻ đẹp trầm mặc
khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm
u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn.
- Có vẻ đẹp mang màu sắc triết
lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ.
- Có vẻ đẹp vui tươi
khi đi qua những bờ bãi xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long.
- Có vẻ đẹp mơ màng
trong sương khói khi nó rời xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
b. Uyên bác : Là sự hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và có thể
cung cấp, đóng góp, lí giải những kiến thức đó cho người khác.
* Nguyễn Tuân
+ Trong tác phẩm, ông hay
vận dụng những tri thức của rất nhiều ngành nghệ thuật, thậm chí cả những ngành
không liên quan gì đến nghệ thuật để miêu tả, khám phá, hiện thực. Nó có tác
dụng làm cho người đọc nhìn hiện thực ở nhiều góc độ và cung cấp cho người
đọc một lượng thông tin hết sức phong phú ngoài văn chương.
+ Ở Người lái đò Sông Đà, tác giả đã vận dụng tri thức của rất nhiều
ngành để miêu tả tính cách hung bạo cũng như vẻ đẹp trữ tình của dòng sông :
- Tri thức của những ngành
nghệ thuật :
/ Đó là kiến thức của
ngành điện ảnh khi tác giả miêu tả tính hung bạo của con sông ; khi ông tưởng
tượng những nhà quay phim dũng cảm quay cái hút nước.
/ Đó là kiến thức của
ngành hội hoạ khi ông miêu tả màu nước sông Đà.
/ Đó là kiến thức của
ngành kiến trúc, điêu khắc khi ông miêu tả sông Đà nhìn từ trên cao ; khi miêu
tả hình dáng những hòn đá nơi lòng sông.
- Tri thức của những ngành
khác tưởng như không liên quan gì đến nghệ thuật :
/ Ngành địa lí, lịch sử :
Đó là khi ông nói tới chiều dài con sông ; tên gọi sông Đà qua các thời kì lịch
sử.
/ Ngành quân sự, võ thuật,
thể dục thể thao : Đó là cách miêu tả cảnh thuỷ chiến trên sông Đà với rất
nhiều thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể dục thể thao.
/ Ngành khí tượng thuỷ
văn : Đó là khi miêu tả các con thác, sức nước chảy.
* Hoàng Phủ Ngọc Tường : Huy động nguồn tri thức phong phú, thuộc các lĩnh vực địa lí, lịch
sử, văn hoá, để xây dựng hình tượng sông Hương :
+ Vẻ đẹp thiên nhiên của
sông Hương là kết quả của những tri thức địa lí và khả năng quan sát sắc sảo
của người trần thuật : Sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất, thành phố
Huế và nó mang trong mình tính cách Huế, như một cô gái Huế duyên dáng, điểm
tô cho vẻ đẹp Huế.
+ Vẻ đẹp văn hoá của sông
Hương là kết quả của những tri thức văn hoá về một thành phố, từng là
chốn đế đô. Sông Hương tự bản thân nó đã mang những phẩm chất văn hoá độc đáo.
Nó gắn với nhạc cổ điển và những đêm ca Huế trên sông, gắn với Nguyễn Du và
khúc nhạc Tứ đại cảnh, nó là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca.
+ Vẻ đẹp lịch sử của sông
Hương là kết quả của những tri thức về lịch sử sông Hương gắn với lịch
sử anh hùng của xứ Huế, của đất nước…
3.2. Khác
a. Nguyễn Tuân
* Có cảm hứng đặc biệt với cái dữ dội và cái tuyệt mĩ.
* Trong Người lái đò Sông Đà : Nhà văn đã nhìn Sông Đà ở góc
độ khắc nghiệt của thiên nhiên để phát hiện ra tính cách hung bạo của con sông.
Sự dữ dội của sông Đà thể hiện ở đá và nước.
+ Đá sông Đà :
- Đá bờ sông : Dựng vách thành, tuy không nguy hiểm
nhưng nó tạo cho người ta cái cảm giác sợ hãi, rợn ngợp trước thiên nhiên
bao la, hùng vĩ.
- Đá lòng sông :
Chia thành các vòng, các lớp. Mỗi lớp đá, hòn đá có một nhiệm vụ khác nhau song tất cả đều nhằm
mục đích tiêu diệt tất cả những gì đi trên sông, là kẻ thù nguy hiểm và hung
bạo nhất.
+ Nước sông Đà :
- Những cái hút nước : Giống như cái giếng bê tông thả
xuống sông. Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút
xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn.
- Những cái thác nước : Tiếng nước réo gần mãi lại réo
to mãi lên như là oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo ; rống
lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng.
+ Đá và nước phối
hợp với nhau : Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm tạo thành trùng vi thạch trận, là kẻ thù số một của tất cả
những người lái đò sông Đà.
b. Hoàng Phủ Ngọc Tường
* Đậm chất trữ tình, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi.
* Trong Ai đã đặt tên cho
dòng sông ?
+ Giàu trí tưởng tượng
lãng mạn :
- Sông Hương trong trí tưởng tượng lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường có lúc như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại ; có
lúc trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở ; có lúc lại là
người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại.
- Đặc biệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hình dung tưởng tượng
hành trình sông Hương đến với thành phố Huế giống như hành trình của người con
gái đi tìm gặp người yêu ; và trước khi về biển cả, sông Hương đột ngột đổi
dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn
Bao Vinh xưa cổ giống như Thuý Kiều trở lại tìm Kim Trọng trong đêm tình
tự.
+ Giàu tình cảm, say
mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế : Tất cả những phát hiện về vẻ đẹp của
sông Hương, xét đến cùng, bắt nguồn từ tình cảm thiết tha đến đắm say của tác
giả đối với cảnh và người xứ Huế. Nếu không có tình yêu đối với xứ Huế thì
không thể có những trang văn hay và đẹp đến thế về xứ Huế.
4. Lí giải nguyên nhân
a. Giống
- Đều là những con người
có tài, rất mực tài hoa uyên bác.
- Đều là những con người
có tâm, là những trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
- Đều là những nhà văn có
phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đều tìm đến với thể tuỳ bút, bút kí.
b. Khác : Đều là những nhà văn có ý thức cá nhân sâu sắc, có cá tính sáng tạo.
Đó cũng chính là qui luật tất yếu của sáng tạo nghệ thuật.
5. Đánh giá khái quát
- Hai nhà văn với những
nét giống và khác trong phong cách nghệ thuật đã có những đóng góp không nhỏ để
tạo nên sự phong phú, đa dạng mà vẫn thống nhất của nền văn học dân tộc.
- Người đọc yêu mến, tự
hào bởi họ đã góp phần tô điểm cho đất nước bằng những trang văn thật đẹp, thật
sang.
Đề 2
Nhân đạo là một trong
hai cảm hứng chủ đạo xuyên suốt nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo đó ở
văn học từ 1930 đến 1945 có gì giống và khác ở văn học từ 1945 đến 1975 ?
Hãy phân tích và
chứng minh qua hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao (theo Ngữ văn 11,
tập một) và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (theo Ngữ văn 12, tập
hai).
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai giai đoạn, hai tác phẩm, của hai
tác giả, cùng thể loại, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Cảm hứng nhân đạo ở văn học từ 1930 đến 1945
có gì giống và khác ở văn học từ 1945 đến 1975 ?
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Vấn đề cần nghị luận, hai tác giả, hai tác phẩm
2. So sánh sự giống và khác của cảm hứng nhân đạo trong văn học Việt
Nam từ 1930 đến 1945 và từ 1945 đến 1975
2.1. Giống
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người, nhất là tầng lớp nhân dân cực khổ
lầm than
- Tố cáo, lên án những thế lực bạo tàn gây đau khổ cho con người
- Đồng cảm với những số phận bất hạnh
- Đồng tình với ước mơ, nguyện vọng chính đáng của con người và
khát khao đổi thay số phận cho họ.
2.2. Khác
+ Văn học từ 1930 đến 1945
- Coi con người là nạn
nhân bất lực của hoàn cảnh.
- Khao khát đổi thay số
phận cho con người nhưng bế tắc, bất lực.
+ Văn học từ 1945 đến 1975
- Quan niệm con người
không phải là nạn nhân của hoàn cảnh mà có khả năng cải tạo hoàn cảnh.
- Khẳng định và tin tưởng
khả năng cách mạng của con người dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp họ nhanh
chóng đổi thay số phận.
2.3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống : Đều là các nhà văn chân chính, đều là những nhà nhân đạo từ
trong cốt tuỷ (Sê-khốp).
b. Khác
: Do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ tư tưởng.
- Các nhà văn 1930-1945 (chủ yếu là các nhà văn hiện thực phê phán)
: Mang ý thức hệ tư sản, tiểu tư sản, hầu hết chưa tham gia cách mạng nên
mới chỉ thấy tác động một chiều của hoàn cảnh đối với con người, nhìn con người
và hiện thực xã hội có phần bi quan.
- Các nhà văn 1945-1975 : Đồng thời là những chiến sĩ cách mạng,
trực tiếp tham gia vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, thấm nhuần
tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản nên có tinh thần lạc quan cách mạng, thấu
suốt tương lai.
3. Phân tích, chứng minh qua Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
3.1. Giống
a. Ca ngợi vẻ đẹp của con người
* Chí Phèo : Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn
của người nông dân như :
+ Chí Phèo : Nhiều lần khẳng
định bản chất hiền lành, lương thiện của Chí, ngay cả khi Chí là con quỉ dữ
của làng Vũ Đại.
+ Thị Nở : Bản chất nhân
hậu.
* Vợ chồng A Phủ : Ca ngợi vẻ đẹp người lao động miền núi Tây Bắc :
+ Vẻ đẹp hình thức :
- Mị : Gián tiếp qua chi
tiết trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị; qua việc Pá Tra đến hỏi Mị làm con dâu trừ nợ ; qua việc A Sử bắt Mị
về làm vợ.
- A Phủ : Khoẻ mạnh, cường
tráng, nam tính.
+ Vẻ đẹp tâm hồn, tính
cách :
- Mị : Yêu đời, yêu cuộc
sống ; yêu tự do ; yêu lao động ; hiếu thảo ; sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.
- A Phủ : Tự do ; mạnh mẽ
; cần cù lao động.
b. Tố cáo, lên án những thế lực bạo tàn gây đau khổ cho con người
* Chí Phèo : Tố cáo các thế lực :
+ Thực dân : Gián tiếp qua
hình ảnh nhà tù.
+ Phong kiến : Câu kết với
nhau bóc lột người nông dân đến tận xương tuỷ và đẩy họ vào con đường lưu
manh tha hoá, tiêu biểu là bá Kiến.
+ Thành kiến nghiệt ngã
của xã hội (lời bà cô thị Nở).
* Vợ chồng A Phủ : Lên án giai cấp thống trị
miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra :
+ Bóc lột người lao động
bằng cách cho vay nặng lãi và lợi dụng sức lao động của con người :
-
Mị phải làm dâu gạt nợ nhà
thống lí Pá Tra, món nợ truyền kiếp,
thực chất là một thứ người ở không công.
- A Phủ vay tiền của Pá
Tra để nộp vạ và trở thành người ở trừ nợ, người ở không công.
- Những người đàn bà
sống trong nhà thống lí Pá Tra, tuổi còn trẻ nhưng cái lưng đã còng rạp
xuống vì công việc.
+ Đày ải, biến người lao
động thành những nô lệ, phục vụ cho chúng :
- Mị : Trước khi về nhà
Pá Tra là một cô gái rất yêu đời, yêu cuộc sống. Sau khi về nhà Pá Tra chỉ còn
là con trâu, con ngựa, con rùa, lầm lũi cả ngày không nói, chỉ biết vùi vào
việc làm cả đêm cả ngày như một cỗ máy.
- A Phủ : Trước khi về
nhà Pá Tra là một thanh niên với tính cách tự do, mạnh mẽ, không sợ cường
quyền, bạo lực. Sau khi về nhà Pá Tra trở thành một nô lệ, làm lợi cho nhà
thống lí.
+ Cấu kết với thực dân
Pháp đàn áp phong trào cách mạng vùng cao : Bố con Pá Tra đã vào ở trong đồn
Tây.
c. Đồng cảm với những số phận bất hạnh
* Chí Phèo
+
Đồng cảm với số phận của Chí Phèo :
-
Miêu tả Chí như là nạn nhân của xã hội : Chí hiền lành, lương thiện ; thực
dân, phong kiến đã làm cho Chí tha hoá ; Chí khao khát hoàn lương
mà không được ; Chí phải chết đau khổ trên ngưỡng cửa của xã hội loài người.
- Sự
đồng cảm còn thể hiện ở những day dứt trong tiếng chửi của Chí ở đầu tác phẩm ;
những bế tắc của Chí trong câu hỏi ở cuối tác phẩm.
+
Đồng cảm với số phận thị Nở :
-
Miêu tả thị Nở với tất cả sự thiệt thòi nhất của hoá công : Xấu, nghèo, dở hơi,
dòng giống mả hủi.
- Sự
đồng cảm còn thể hiện ở việc thấu hiểu khát khao tình yêu, hạnh phúc của thị,
rất muộn mằn, khiêm tốn, chỉ là một người đàn ông như Chí Phèo nhưng cũng
không có được.
* Vợ
chồng A Phủ : Đồng cảm sâu sắc với số phận người lao động
nghèo ở miền núi như Mị và A Phủ :
- Miêu tả họ như là nạn nhân của món nợ truyền
kiếp.
- Miêu tả họ như là nạn nhân của tín ngưỡng
lạc hậu : Cả Mị, A Phủ và những người đàn bà khác đều tin rằng mình đã bị cúng
trình ma nhà thống lí Pá Tra cho nên chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi.
d.
Đồng tình ước mơ, nguyện vọng chính đáng của con người, khát khao đổi thay số
phận cho họ
- Ước mơ được sống tự do : Mị, A Phủ
- Khát khao tình yêu, hạnh phúc : Thị Nở, Mị
- Mong muốn được sống bình thường, lương
thiện : Chí Phèo.
3.2.
Khác
a. Chí Phèo
- Nam Cao nhìn những người nông dân như Chí
Phèo, thị Nở là những nạn nhân, sản phẩm của hoàn cảnh xã hội thực dân phong
kiến.
- Mặc dù đồng tình và khao khát đổi thay số
phận cho những người nông dân cùng hơn cả dân cùng, những con người dưới
đáy, bị xa lánh, hắt hủi nhưng tác giả cũng đành bất lực : Kết thúc tác phẩm
là sự chấm dứt đột ngột của mối tình Chí Phèo thị Nở, là cái chết bi phẫn của
Chí trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện, thể hiện cái nhìn bi quan
về tương lai của người nông dân.
b. Vợ chồng A Phủ
- Tô Hoài nhìn người lao động miền núi Tây Bắc
không phải là nạn nhân của hoàn cảnh mà là những người có khả năng cải tạo
hoàn cảnh.
- Đồng tình với khát vọng đổi thay số phận của
họ, quan trọng hơn, ông đã chỉ ra con đường tất yếu họ cần phải đi và khẳng
định khả năng đi tới với cách mạng của họ, đấu tranh tự giải phóng chính mình :
Mị, A Phủ đã giải thoát cho nhau, cùng nhau tới Phiềng Sa trở thành du kích.
4.
Đánh giá khái quát
- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước
là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những
biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do
ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau, lại có những biểu hiện
riêng.
- Sự giống và khác của cảm hứng nhân đạo ở hai
giai đoạn văn học tạo nên sự phong phú, đa dạng trong thành tựu của nền văn học
nước nhà về mặt nội dung tư tưởng.
Đề 3
Cảm nhận của anh/chị về hai hình ảnh cái lò gạch cũ trong truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao, theo Ngữ văn 11, tập một) và rừng xà nu trong truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Nguyễn Trung Thành (theo Ngữ văn
12, tập hai) ?
Tìm
hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 hình ảnh, trong 2 tác phẩm, của 2 tác giả,
khác giai đoạn, cùng thể loại.
- Đối tượng nghị luận : hai hình ảnh cái lò gạch và rừng xà nu
trong
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh,
so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Chí
Phèo và Rừng
xà nu
Lập
dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Nam Cao, Nguyễn Trung Thành ; hai
tác phẩm Chí Phèo, Rừng xà nu ; vấn đề cần nghị luận
2. Cảm nhận về hai hình ảnh
2.1. Giống nhau
-
Cả hai hình ảnh đều xuất hiện ở phần đầu và phần cuối của tác phẩm tạo nên kết
cấu đặc sắc đầu cuối tương xứng.
-
Cả hai đều được hiểu theo hai nghĩa, tả thực và ẩn dụ tượng trưng.
-
Cả hai đều rất ấn tượng, ám ảnh, là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, có ý nghĩa
sâu sắc, góp phần thể hiện nội dung tư tưởng chủ đề tác phẩm, do đó đều được
nhà văn lấy làm nhan đề tác phẩm (Chí
Phèo ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ).
2.2. Khác nhau
a. Hình ảnh cái lò gạch cũ
* Nghĩa tả thực : Cái lò nung gạch đã cũ, không còn sử dụng, bỏ
không, trước đây xuất hiện nhiều ở những vùng quê.
* Nghĩa ẩn dụ tượng trưng :
+ Hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện ở phần đầu
tác phẩm khi một anh đi thả ống lươn nhặt
được Chí Phèo trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái lò gạch
bỏ không và xuất hiện ở phần cuối tác phẩm khi Chí Phèo chết, thị Nở nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn… rồi nhìn
nhanh xuống bụng và đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ
không, xa nhà cửa và vắng người lại qua… ẩn dụ cho cái vòng luẩn quẩn của
những kiếp Chí Phèo. Chí Phèo bố chết đi rất có thể sẽ lại có một Chí Phèo con
ra đời và cuộc đời, số phận của nó cũng sẽ giống như bố nó, cũng sẽ lại rơi vào
con đường lưu manh tha hoá… Từ đó, tác giả muốn khẳng định : Chí Phèo không phải
là hiện tượng cá biệt mà đây là hiện tượng có tính phổ biến, qui luật trong xã
hội cũ. Khi nào còn tồn tại chế độ áp bức bóc lột của thực dân phong kiến thì
khi đó còn tồn tại những kiếp Chí Phèo.
+ Hình ảnh thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc của
Nam Cao đối với số phận người nông dân.
à Hình ảnh
cái lò gạch cũ tập trung thể hiện giá trị hiện thực tố cáo của tác phẩm và bộc
lộ hạn chế của Nam Cao.
b. Hình ảnh rừng xà nu
* Ý nghĩa tả thực :
+ Đoạn văn mở đầu tác phẩm giới thiệu với người
đọc gần như đầy đủ các thông tin về một loài cây ở Tây Nguyên, đó là cây xà nu
:
- Hình dáng : Khi còn nhỏ hình nhọn mũi tên lao
thẳng lên bầu trời ; khi đã trưởng thành cành
lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ.
- Đặc điểm : Sinh trưởng rất khoẻ, một cây ngã xuống có bốn
năm cây con mọc lên để thay thế (cấp số nhân) ; ưa ánh sáng mặt trời đến kì lạ,
phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng,
thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp ; có
nhựa, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh
nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.
+ Rải rác trong suốt tác phẩm, hình tượng cây
xà nu trở đi trở lại với ý nghĩa tả thực tác dụng của nó đối với đời sống con
người : Gỗ xà nu làm củi ở mỗi bếp ; khói xà nu làm đen bảng để trẻ con học chữ
; nhựa xà nu làm đuốc để thắp sáng…
à Cây xà
nu gắn bó thân thiết với đời sống dân làng Xô Man.
* Ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng :
+ Rừng xà nu như một nhân vật tham gia
vào kết cấu câu truyện :
- Mở đầu tác phẩm là đoạn văn
miêu tả rừng xà nu trong bom đạn của kẻ thù. Kết thúc đoạn văn là hình ảnh : Những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
- Kết thúc tác phẩm là hình ảnh
: Những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân
trời.
à Như vậy,
rừng xà nu tạo nên kết cấu vòng tròn đầu cuối tương xứng. Đây cũng là lí do giải
thích vì sao tác phẩm có tên là Rừng xà
nu.
+ Rừng xà nu như một nhân vật tham gia, chứng
kiến những sự kiện có ý nghĩa trọng đại của dân làng Xô Man :
- Đêm đêm người dân Xô Man thức mài vũ khí dưới
ánh lửa xà nu. Hoạt động này đánh dấu giai đoạn chuẩn bị nổi dậy.
- Giặc đốt mười đầu ngón tay của Tnú bằng nhựa
xà nu. Hành động này làm bùng lên ngọn lửa căm thù của dân làng Xô Man vốn âm ỉ
đã từ lâu, đánh dấu giai đoạn mình phải cầm
giáo (vũ khí) như cách nói của cụ Mết.
- Xác mười tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa
xà nu. Đó là chiến công đầu tiên của dân làng Xô Man khi đã cầm giáo, đánh dấu bước ngoặt trong lịch
sử đấu tranh vũ trang của người dân Tây Nguyên.
- Dân làng tập trung đông đủ quanh đống lửa xà
nu để nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú. Xà nu như chứng kiến ngày vui của cả cộng
đồng và một tương lai đầy hứa hẹn đang mở ra trước mắt người dân Tây Nguyên.
+ Rừng xà nu được miêu tả bằng bút pháp nhân
hoá và luôn trong thế đối sánh với con người :
- Rừng xà nu được nhân hoá ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng. Rừng xà nu lúc này
đúng là người anh hùng của Tây Nguyên, là một nhân vật trong câu truyện.
- Nhiều lần trong tác phẩm, xà nu được đặt
trong thế đối sánh với con người : Máu Tnú được ví như nhựa xà nu ; ngực cụ Mết
căng như một cây xà nu lớn...
- Nếu nói tập thể dân làng Xô Man như một cánh
rừng xà nu thì ở đó có đầy đủ các thế hệ cây xà nu : Cụ Mết là cây xà nu cổ thụ,
tượng trưng cho lịch sử, truyền thống của cả cánh rừng ; Tnú tượng trưng cho những
cây xà nu trên mình mang đầy thương tích nhưng vẫn vươn lên, vẫn chiến thắng
bom đạn của kẻ thù ; Dít tượng trưng cho những cây xà nu đã trưởng thành, đang
bảo vệ dân làng ; bé Heng tượng trưng cho thế hệ cây non, đầy hứa hẹn cho những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời
sau này.
+ Rừng xà nu là hình ảnh tượng trưng cho phẩm
chất và cuộc sống của con người Tây Nguyên :
- Rừng xà nu trong bom đạn của kẻ thù với hình ảnh
hàng vạn cây xà nu không cây nào không bị thương, tượng trưng cho đau thương, uất
hận của dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Sức sống mãnh liệt của rừng xà nu tượng trưng
cho sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên, không bom đạn nào, không kẻ
thù nào có thể tiêu diệt được. Đây cũng là sức sống bất diệt của con người Việt
Nam nói chung.
- Những cây xà nu không chịu khuất mình trong
bóng râm, luôn vươn lên tiếp lấy ánh sáng mặt trời như tượng trưng cho khát vọng
tự do, tinh thần phóng khoáng, cho ý chí vươn lên vì lí tưởng cao đẹp của con
người Tây Nguyên.
- Các thế hệ cây xà nu nối tiếp, thay thế nhau
trong mưa bom bão đạn tượng trưng cho những thế hệ người Tây Nguyên nối tiếp
nhau cầm súng đứng lên chống lại kẻ thù.
à Là một
hình ảnh đẹp, đầy ấn tượng, đầy ám ảnh và rất giàu ý nghĩa.
3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống : Xây dựng những hình ảnh ấn tượng, ám ảnh,
giàu ý nghĩa là một dụng ý nghệ thuật của các nhà văn.
b. Khác
+ Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử :
- Chí
Phèo : Nam Cao sáng tác trước Cách mạng tháng Tám 1945 trong hoàn cảnh đen
tối của xã hội Việt Nam đương thời.
- Rừng xà
nu : Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ
đang ở giai đoạn ác liệt.
+ Do khuynh hướng sáng tác :
- Chí Phèo : Thuộc khuynh
hướng văn học hiện thực phê phán, chưa nhìn thấy lối thoát của người nông dân.
- Rừng xà nu : Thuộc nền
văn học Cách mạng 1945-1975, có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng
phát triển tích cực của đời sống xã hội.
4. Đánh giá khái quát
- Cả hai hình ảnh, với
những nét giống và khác, đều hết sức đặc sắc, giúp nhà văn thể hiện được ý đồ
nghệ thuật và góp phần làm sáng lên nội dung tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Cả hai góp phần làm
phong phú thêm hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng trong văn học dân tộc
và nhân loại.
Đề 4
Phân tích trong thế đối sánh để thấy được sự tương đồng và khác biệt
của hai bài thơ Tràng giang (Huy Cận)
và Chiều tối (Hồ Chí Minh) về vẻ đẹp
cổ điển và hiện đại.
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 tác phẩm, của 2 tác
giả, cùng giai đoạn, cùng thể loại, khác khuynh hướng có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : sự tương đồng và khác biệt về
vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Tràng giang và Chiều tối
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Hồ Chí Minh,
Huy Cận ; hai bài thơ Tràng giang, Chiều tối ; nội dung cần nghị luận
2. Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại
2.1. Vẻ đẹp cổ điển
* Vẻ đẹp cổ điển được hiểu là vẻ đẹp đã trở thành chuẩn mực
trong văn học trung đại. Biểu hiện :
+ Có cảm hứng đặc biệt đối với thiên nhiên
+ Miêu tả thiên nhiên theo kiểu chấm phá, không miêu tả nhiều chi tiết,
cốt ghi lấy linh hồn của cảnh vật
+ Hình ảnh nhân vật trữ tình
trong thơ bình tĩnh, ung dung như giao hoà với trời đất.
* Nói một bài thơ hiện
đại có vẻ đẹp cổ điển là muốn nói bài thơ đó gợi
cho ta nhớ tới vẻ đẹp của những bài thơ cổ ở cách dùng từ, cách sử dụng các thi
liệu, cách tả cảnh (theo lối chấm phá), cách tả tình (tả cảnh ngụ tình)…
2.2. Vẻ đẹp hiện đại : Nói vẻ đẹp hiện đại là nói tới sự sáng tạo, sự cách tân của cá
nhân nhà thơ hiện đại thể hiện ở cách cảm, cách tả, cách sử dụng ngôn từ… không
còn tính qui phạm như trong thơ cổ, tuy họ vẫn kế thừa vẻ đẹp của thơ cổ.
3. Sự tương đồng và khác biệt của hai bài thơ về vẻ đẹp cổ điển và
hiện đại
3.1. Sự tương đồng
a. Vẻ đẹp cổ điển
- Cảm hứng thiên nhiên vào thời điểm buổi chiều
- Thi liệu hầu hết đều có trong thơ cổ
b. Vẻ đẹp hiện đại : Hình ảnh, chi tiết đều là thực chứ không
phải ước lệ như trong thơ cổ
3.2. Sự khác biệt
a. Vẻ đẹp cổ điển
* Tràng giang
+ Tên bài thơ là một từ Hán Việt
+ Cảm hứng đặc biệt với thiên nhiên : Bài thơ tràn ngập cảnh vật thiên nhiên : sông nước, mây, bầu trời,
núi, nắng
+ Hình ảnh quen thuộc của thơ xưa : Dòng sông, con thuyền, đám mây, cánh chim, núi
+ Từ ngữ, hình ảnh mượn của Đường thi (từ đùn mượn của Đỗ Phủ ;
hình ảnh khói hoàng hôn mượn của Thôi
Hiệu)
+ Hình ảnh nhân vật trữ tình đối diện với thiên nhiên, gợi hình ảnh lữ thứ trong thơ cổ Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu
sương sa khách bước dồn (Chiều hôm nhớ nhà - Bà Huyện Thanh Quan)
* Chiều tối
+ Chữ viết :
Nguyên tác chữ Hán
+ Thể thơ : Thất
ngôn tứ tuyệt
+ Thi đề : Giai thì, một đề
tài hấp dẫn của thơ cổ (Nhật kí trong tù
có nhiều bài lấy thi đề là giai thì :
Tảo – Buổi sớm ; Ngọ - Buổi trưa ; Ngọ hậu
– Quá trưa ; Vãn - Chiều hôm ; Mộ - Chiều tối)
+ Bút pháp miêu tả thiên nhiên : Theo kiểu chấm phá, không tả nhiều,
chỉ chọn hai hình ảnh chim, mây ;
không tả cụ thể, chỉ cốt ghi lấy linh hồn của thiên nhiên tạo vật (quyện điểu, cô vân)
+ Nhân vật trữ tình : Phong thái ung dung, tự do, tự tại như giao
hoà với trời đất.
b. Vẻ đẹp hiện đại
* Tràng giang
+ Chữ viết Quốc ngữ
+ Thể thơ tự do
+ Ngôn ngữ được cá thể hoá cao độ dợn dợn, nhỏ
+ Những chi tiết, hình ảnh của cuộc sống đời
thường được đưa vào thơ, trở thành đối tượng thẩm mĩ củi một cành khô.
+ Nghệ thuật miêu tả tâm trạng không cần ngoại cảnh Lòng
quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
+ Sử dụng triệt để nghệ thuật tương phản đối
lập rất hội hoạ, ấn tượng, hiện đại của văn học lãng mạn (cả 4 khổ).
* Chiều tối : Tinh thần hiện đại là tinh thần cách mạng, tinh thần chiến đấu được
thể hiện qua phẩm chất của nhân vật trữ tình.
+ Cảnh : Được nhìn và miêu tả trong sự vận động từ bóng tối đến ánh
sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui, giàu sức sống, từ lạnh lẽo đến ấm nóng (hai câu
đầu tả cảnh thiên nhiên, bức tranh đẹp nhưng buồn, thấm thía cảm giác cô đơn, lạnh
lẽo ; hai câu cuối tả cảnh lao động, sinh hoạt tràn đầy niềm vui, sự ấm nóng của
con người)
+ Nhân vật trữ tình : Ý chí kiên cường, bất khuất, không nao núng
trước mọi gian khổ, luôn lạc quan, tin tưởng, làm chủ tình thế, vượt lên trên
chiến thắng hoàn cảnh, chủ động đón nhận mọi thử thách, khó khăn (không phải là
người tù trên đường đi đày mà là thi sĩ nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên
và là một chiến sĩ tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng).
4. Lí giải nguyên nhân
a. Tương đồng
- Cùng giai đoạn văn học
1930-1945
- Tác giả đều là những
nhà thơ có ý thức kế thừa truyền thống và phát huy hiện đại. Hồ Chí Minh sinh
ra và lớn lên trong môi trường Hán học, học chữ Hán từ nhỏ, đồng thời lại tiếp
xúc với nhiều nền văn minh khác nhau nên rất hiện đại ; Huy Cận sinh ra trong một
gia đình nhà nho, đỗ tú tài toàn phần, đồng thời là một trí thức Tây học, được
tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây.
- Sự kết hợp hai yếu tố
cổ điển, hiện đại là một đặc điểm của phong cách thơ Hồ Chí Minh, Huy Cận (trước1945).
Hai bài thơ đều rất tiêu biểu cho hồn thơ của hai tác giả.
b. Khác biệt
* Về tuổi tác
+ Hồ Chí Minh : Khi viết bài thơ đã hơn 50 tuổi, đã từng trải, dày dạn
kinh nghiệm nên bản lĩnh, bình tĩnh, tự tin, đối mặt và làm chủ hoàn cảnh.
+ Huy Cận : Khi viết bài thơ mới 20 tuổi, chưa trải nghiệm, lại gặp
buổi mất nước nên dễ u buồn, nuối tiếc, bâng khuâng.
* Về khuynh hướng sáng tác
+ Chiều tối : Thuộc văn học
cách mạng 1930-1945, mảng thơ ca trong tù, tác giả là một chiến sĩ cách mạng đã
kinh qua, nắm vững qui luật vận động tất yếu của lịch sử.
+ Tràng giang : Thuộc
phong trào Thơ mới 1932-1945, tác giả
là một thi sĩ đặc biệt có cảm quan vũ trụ, mang trong mình nỗi buồn của cả một
thế hệ các nhà thơ nhiệt tình yêu nước nhưng chưa đủ dũng khí, chưa được giác
ngộ Cách mạng nên chỉ còn biết gửi lòng mình vào thơ ca, vào tình yêu tiếng Việt.
5. Đánh giá khái quát : Sự tương đồng và khác
biệt của hai bài thơ về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại cho thấy :
- Đó là một vẻ đẹp của
thơ hiện đại.
- Khẳng định thơ hiện đại
không đoạn tuyệt với thơ truyền thống
- Sự phong phú, đa dạng
của phong cách thơ Việt Nam hiện đại.
Đê 5
Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai nhà thơ
Quang Dũng và Chế Lan Viên qua hai thi phẩm Tây
Tiến và Tiếng hát con tàu ?
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 tác phẩm, của 2 tác
giả, cùng giai đoạn, cùng thể loại, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Tình yêu đối với cảnh và người
miền Tây Bắc Tổ quốc
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Tây Tiến và Tiếng hát con tàu
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Quang Dũng, Chế
Lan Viên ; hai tác phẩm Tây Tiến, Tiếng
hát con tàu ; nội dung cần nghị luận.
2. Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai tác
giả qua hai tác phẩm
2.1. Giống nhau
- Đề tài : Tây Bắc là đề
tài hay, ý nghĩa, hấp dẫn nhiều cây bút một thời.
- Đều thể hiện một cách
xúc động tình cảm sâu đậm đối với cảnh và người Tây Bắc, bao trùm là nỗi nhớ (từ nhớ xuất hiện trong Tây Tiến 4 lần ; bài thơ ban đầu có nhan
đề là Nhớ Tây Tiến ; trong Tiếng hát con tàu 9 lần)
- Đều thể hiện niềm
khao khát được trở về Tây Bắc, được gắn bó vĩnh viễn cùng Tây Bắc Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương (Tiếng hát con tàu), Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về (Tây Tiến)
2.2. Khác nhau
a. Tình yêu đối với cảnh
* Tây Tiến : Thể hiện ở việc ca ngợi vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa nên thơ,
trữ tình của núi rừng Tây Bắc.
+ Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội :
- Núi hùng vĩ, hiểm trở Dốc
lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây súng ngửi trời, Ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống
- Rừng hoang dã, huyền bí, dữ dội, ghê sợ chiều chiều oai linh thác gầm thét, đêm đêm cọp trêu người, nước lũ
+ Vẻ đẹp nên thơ, trữ tình :
- Đó là một thế giới huyền ảo, hư thực được tạo nên bởi mưa rừng
sương núi.
- Đó là một thế giới thiên nhiên không phải vô tri mà dường như cũng
có linh hồn hoa về trong đêm hơi, hoa
đong đưa, hồn lau nẻo bến bờ
* Tiếng hát con tàu
+ Thể hiện ở nỗi nhớ có tính chất khái quát Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ, Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu
thương
- Hình ảnh chân thực bản
sương giăng, đèo mây phủ vừa gợi không gian núi rừng, vừa nói được
nét đặc trưng của cảnh sắc miền Tây Bắc. Tất cả như chìm trong sương, trong
mây, một không gian huyền ảo, hư thực, đẹp, thơ mộng và rất ấn tượng.
- Câu thơ thiên về khái quát, diễn tả nỗi nhớ của nhà thơ đối với miền
Tây Bắc. Câu hỏi tu từ không mang ý nghĩa nghi vấn mà đó là một cách khẳng định
nghĩa tình sâu nặng đối với miền đất mình đã từng đi qua, đã từng sống, gắn bó.
+ Thể hiện bằng triết lí Khi ta ở chỉ là
nơi đất ở, Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn. Tác giả đã nêu lên được một
qui luật tâm lí, khi ta ở một vùng đất nào đó, có thể chưa cảm nhận được hết sức
níu kéo của nó, chỉ khi phải rời xa, ta mới cảm nhận được rằng, mảnh đất đó dường
như cũng có tâm hồn, níu kéo con người. Đây là một qui luật tâm lí nói chung.
Riêng với Tây Bắc, xứ thiêng liêng với
rất nhiều ý nghĩa, rất nhiều kỉ niệm, và hơn thế nữa, Tây Bắc còn là ngọn nguồn
của cảm hứng sáng tạo thơ ca Tây Bắc
ơi người là mẹ của hồn thơ thì lại càng có sức níu kéo đặc biệt.
b. Tình yêu đối với người
* Tây Tiến
+ Thể hiện ở việc ca ngợi vẻ đẹp duyên dáng của con người :
- Đó là vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc mang màu sắc xứ lạ phương xa mà rất
đỗi tình tứ của cô gái trong đêm hội đuốc
hoa với trang phục rực rỡ sắc màu xiêm
áo, với cử chỉ điệu bộ e ấp.
- Đó là vóc dáng rất tạo hình
(Nguyễn Tuân) của người chèo thuyền trên con thuyền độc mộc.
+ Thể hiện ở nỗi nhớ da diết những bữa cơm thắm đượm tình quân dân Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu mùa
em thơm nếp xôi
* Tiếng hát con tàu
+ Thể hiện khái quát qua niềm vui sướng được gặp lại nhân dân như nai về suối cũ, cỏ đón giêng hai, chim én gặp
mùa, đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa, chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Những hình ảnh này vừa cho thấy nhân dân vô cùng vĩ đại, vừa thể hiện thái độ,
tình cảm của tác giả đối với nhân dân trân trọng, yêu thương, tin cậy và biết
ơn vô bờ bến.
+ Thể hiện cụ thể ở nỗi nhớ gắn liền với những con người tiêu biểu
cho sự hi sinh, cưu mang, đùm bọc của nhân dân trong kháng chiến : người anh du kích, thằng em liên lạc, mế, em
(cô gái nuôi quân). Mỗi nhân vật gắn với một kỉ niệm cụ thể, trong tình quân
dân có tình yêu đôi lứa, trong tấm tình chung có tấm tình riêng… Tất cả đều thể
hiện tình yêu thương và lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân, con
người Tây Bắc.
3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống
- Hoàn cảnh sáng tác :
Hai tác giả đều tham gia kháng chiến chống Pháp, đã từng gắn bó, có nhiều kỉ niệm
với nhiều vùng miền của Tổ quốc (trong đó có Tây Bắc) ; khi sáng tác bài thơ cả
hai đều đang cách xa Tây Bắc (Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, Chế Lan Viên
đang ở Hà Nội), đều rất muốn đến với Tây Bắc, trở lại nơi sâu nặng nghĩa tình
nhưng chưa có điều kiện, đành gửi lòng mình vào thơ ca.
- Hai tác giả đều là những
nhà thơ rất mực tài năng.
b. Khác
* Con người
+ Quang Dũng : Xuất thân là một thanh niên trí thức Hà Nội hào hùng,
hào hoa, là nghệ sĩ đa tài
+ Chế Lan Viên : Con đường thơ trải qua nhiều biến động nhiều bước
ngoặt với những trăn trở tìm tòi không ngừng. Đặc biệt, bài thơ được rút từ Ánh sáng và phù sa - tập thơ thể hiện
hành trình tư tưởng và tâm hồn của người nghệ sĩ đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui, từ chân trời của một người đến
chân trời của mọi người.
* Phong cách thơ
+ Chế Lan Viên : Nổi bật nhất là chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp
trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của thế giới hình ảnh.
+ Quang Dũng : Vừa hồn nhiên, vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa,
phóng khoáng, đậm chất lãng mạn.
4. Đánh
giá khái quát : Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai
tác giả qua hai tác phẩm :
- Đã khẳng định Tây Bắc
là miền đất thiêng liêng, là đề tài hấp dẫn, là ngọn nguồn của thơ ca nói
riêng, văn học nghệ thuật nói chung một thời.
- Cho thấy sự phong
phú, đa dạng của phong cách thơ Việt Nam hiện đại.
- Giúp người đọc thêm tự
hào, yêu mến, gắn bó và nhận thức được trách nhiệm với Tổ Quốc.
Đề 6
Đối lập là một thủ pháp nghệ thuật đặc
trưng của văn học lãng mạn. Thủ pháp đó đã được thể hiện như thế nào qua đoạn
văn miêu tả cảnh hai chị em Liên đêm đêm thức đợi chuyến tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) và đoạn văn
miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân) ? (theo Ngữ văn 11, tập một, NXBGD, HN hiện hành)
Tìm
hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai đoạn trích trong hai tác phẩm, của hai tác
giả, cùng giai đoạn, cùng thể loại, cùng khuynh hướng, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Thủ pháp đối lập đặc trưng cơ bản của văn học
lãng mạn
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh,
so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : đoạn văn miêu tả cảnh hai chị em Liên đêm đêm
thức đợi chuyến tàu (Hai đứa trẻ - Thạch
Lam) và đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân)
Lập
dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Thạch Lam, Nguyễn Tuân ; hai tác
phẩm Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù ;
hai đoạn văn ; vấn đề cần nghị luận
2. Thủ pháp đối lập
-
Là một trong những đặc trưng cơ bản của văn học lãng mạn
-
Tác dụng : làm nổi bật đối tượng được miêu tả, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người
đọc.
3. Thủ pháp đối lập thể hiện trong hai đoạn văn
3.1. Nét chung
-
Đều sử dụng thủ pháp đối lập - đặc trưng của văn học lãng mạn
-
Đều xây dựng những tương quan đối lập
-
Đều thể hiện tấm lòng nhà văn đối với cuộc đời và con người.
-
Đều thể hiện những quan niệm của nhà văn
3.2. Nét riêng
a. Đoạn văn miêu tả cảnh chị em Liên đêm đêm thức
đợi chuyến tàu
a.1. Xây dựng những tương quan đối lập
* Đối lập giữa hoạt động, âm thanh của đoàn tàu
và sự yên tĩnh nơi phố huyện
+ Hoạt động, âm thanh của đoàn tàu :
- Tiếng còi xe lửa từ xa
vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi ; Tiếng còi đã rít lên, tàu
rầm rộ đi tới
-
Tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi
- Tiếng hành khách ồn ào
khe khẽ
Đó là những hoạt động, âm thanh vang động,
mạnh mẽ, riết róng, hối hả. Đây là đoàn tàu của âm thanh và của niềm
vui.
+ Sự yên tĩnh nơi phố huyện :
- Người vắng mãi
- Hàng cơm đóng cửa im lặng như ngoài phố
- Ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng
- Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch
mịch.
- Có miêu tả âm thanh : Trống cầm canh đánh tung lên một tiếng ngắn
khô khan không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối ; tiếng chó cắn ;
hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ thỉnh thoảng từng loạt một... nhưng tất
cả đều rất ngắn, nhỏ, càng tô đậm sự yên tĩnh.
à Âm thanh, hoạt động của đoàn tàu đối lập với sự
yên tĩnh nơi phố huyện. Nó như phá tan sự yên tĩnh trong giây lát.
* Đối lập giữa ánh sáng của đoàn tàu và bóng tối
nơi phố huyện
+ Ánh sáng của đoàn tàu :
-
Ngọn lửa xanh biếc sát mặt đất như ma chơi
-
Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng
xa
-
Các toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống
đường
-
Những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt
-
Cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng
Ánh
sáng rực rỡ của đoàn tàu làm cả phố huyện như bừng lên, náo nức. Đây là đoàn
tàu ánh sáng.
+ Bóng tối nơi phố huyện :
- Hàng cơm đóng cửa tối đen như ngoài phố
- Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê
- Trong một đoạn văn ngắn mà
rất nhiều bóng tối, tối đen, đêm tối, đêm
tối, đêm, bóng tối, đêm khuya, đêm tối, đêm, đầy bóng tối.
- Thiên truyện bắt đầu vào
lúc hoàng hôn, khi bóng tối bắt đầu xâm nhập phố huyện và kết thúc vào lúc 9 giờ
đêm, khi bóng tối đã bao trùm, làm chủ. Đặc biệt câu văn cuối cùng Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên
tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.
- Có miêu tả ánh sáng, ánh
sáng của tự nhiên : Ngàn sao vẫn lấp
lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy, sao
trên trời vẫn lấp lánh ; ánh sáng của cuộc sống con người : hai ba đèn lồng lung lay các bóng dài, bóng
đèn lồng với bóng người đi về, đèn ghi, Liên vặn nhỏ ngọn đèn... nhưng hoặc
quá xa vời, hoặc quá yếu ớt, càng tô đậm bóng tối.
à Ánh sáng của đoàn tàu đối lập với bóng tối dày
đặc, bao trùm phố huyện. Nó như xua tan bóng tối trong giây lát.
* Đối lập giữa sự sang trọng của đoàn tàu và sự
nghèo nàn nơi phố huyện
+ Sự sang trọng của đoàn tàu : những toa hạng trên sang trọng lố
nhố những người ngồi, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng. Đây là đoàn
tàu của sự sang trọng.
+ Sự nghèo nàn nơi phố huyện :
- Chị Tí sửa soạn đồ đạc, đêm
nay chỉ bán được cho hai, ba bác phu uống nước và hút thuốc lào, số tiền kiếm
được rất ít ỏi.
- Bác Siêu gánh hàng đi vào
trong làng, dọn ra rồi lại dọn vào, chẳng bán được cho ai.
- Vợ chồng bác xẩm ngủ gục
trên manh chiếu rách, không hát vì không có khách nghe, chẳng xin được đồng
nào.
- Chị em Liên chẳng bán thêm
được cho ai...
Tất
cả đều cho thấy một cuộc sống nghèo nàn, bán buôn ế ẩm, đơn điệu, tẻ nhạt.
à Sự sang trọng của đoàn tàu đối lập với sự
nghèo nàn nơi phố huyện. Nó như đẩy lùi sự nghèo nàn trong giây lát.
a.2. Thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà
văn
+
Khơi gợi ở nhân vật những nhận thức sâu sắc, thấm thía :
- Nhận thức được đoàn tàu với những hoạt
động, âm thanh mạnh, ánh sáng rực rỡ và sự sang trọng khác hẳn, đối lập, tương phản với hiện thực cuộc sống của phố huyện,
của chị em Liên Con tàu như đã đem theo một chút thế giới khác đi qua.
Thế giới ấy khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của
chị Tý và ánh lửa của bác Siêu... (cách nói nhấn mạnh thế giới khác, thế
giới ấy khác hẳn, khác hẳn).
- Ý thức được con tàu ánh sáng, hạnh phúc ấy
chỉ là mơ ước vời xa Liên nhận thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi.
- Ý
thức được thực tại cuộc sống của
mình vẫn chỉ như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.
Hình ảnh trở đi, trở lại nhiều lần trong tác phẩm, trong tâm trí Liên như một
thứ ám ảnh về hiện thực cuộc đời lắt lay và bế tắc.
+
Đánh thức khao khát ở nhân vật về một thế giới khác, cuộc sống khác tươi sáng,
hạnh phúc : Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ
và huyên náo. Đó là thế giới
của ánh sáng, niềm vui, hạnh phúc đối
lập với thế giới nghèo nàn, yên tĩnh
và đầy bóng tối nơi phố huyện. Do đó càng mơ tưởng, khao khát thoát khỏi
thế giới này để vươn tới thế giới kia.
+
Nhà văn khát khao đổi thay số phận cho con người (đoàn tàu vừa là hình ảnh thực,
vừa là hình ảnh mơ ước, trở thành biểu tượng của ánh sáng và hạnh phúc, là khao
khát đổi thay số phận cho những cảnh đời - bóng tối) nhưng cuối cùng cũng
đành bất lực (Nhưng Liên không nghĩ được lâu, mắt chị nặng dần,
rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch
mịch và đầy bóng tối).
a.3. Thể hiện quan niệm của nhà văn : Con người, dù trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ
nào, cũng không bao giờ mất niềm tin, niềm hi vọng Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống
nghèo khổ hàng ngày của họ.
b. Đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên
quản ngục
b.1. Xây dựng những tương quan đối lập
* Ánh sáng và bóng tối
+
Bóng tối : Đêm khuya ; buồng tối chật hẹp
+ Ánh
sáng : Không khí khói toả như đám cháy
nhà, khói bốc toả, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu ; lửa đóm cháy rừng
rực
à Sự chiến thắng của
ánh sáng đối với bóng tối, không còn bóng tối.
* Cái
cao đẹp, tinh khiết và cái phàm tục, dơ bẩn
+ Cái
cao đẹp, tinh khiết : Một tấm lụa
bạch còn nguyên vẹn lần hồ, mùi thơm của thoi mực, chậu mực
+ Cái
phàm tục, dơ bẩn : Buồng giam ẩm ướt, nền
đất ẩm, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián
à Sự chiến thắng của
cái cao đẹp, tinh khiết đối với cái xấu xa, dơ bẩn, không còn cái xấu, cái
ác.
* Người cho chữ và người xin chữ
+ Người cho chữ - Huấn
Cao :
-
Kẻ tử tù, thể xác mất tự do cổ đeo gông,
chân vướng xiềng
-
Khi cho chữ tư thế ung dung, đường hoàng, đĩnh đạc, làm chủ, sáng tạo ra cái đẹp
dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh
căng trên mảnh ván
-
Sau khi cho chữ khuyên quản ngục : Nên
thay chốn ở, nên tìm về nhà quê mà ở ; hãy
thoát khỏi cái nghề này
+ Người
xin chữ - quản ngục :
-
Kẻ quản lí nhà giam, nắm giữ quyền hành
-
Khi nhận chữ thái độ khúm núm cung
kính, lễ phép trước Huấn Cao, kẻ tử tù.
-
Khi nhận lời khuyên :
/
Thái độ cảm động
/
Hành động vái một vái, chắp tay
/
Lời nói nói một câu, dòng nước mắt rỉ vào
kẽ miệng làm cho nghẹn ngào (vô cùng xúc động) : Kẻ mê muội này xin bái lĩnh (tự nhận mình là kẻ mê muội, đoạn trước tự nhận mình chọn nhầm nghề, tự ý thức được bản thân, tỏ rõ sự ân hận ; Xin bái lĩnh vừa lạy vừa nhận lấy một
cách cung kính, tức là hoàn toàn tâm phục, khẩu phục).
b.2. Thể hiện quan niệm của nhà văn về cái Đẹp,
cái Thiện, về con người
* Quan niệm của nhà văn về cái Đẹp, cái Thiện
+ Cái Đẹp có khả năng qui tụ con người, cái Đẹp có khả năng giúp con người
hiểu, tin tưởng, quí mến nhau :
- Khi trước, họ đối đầu,
giờ đây họ đã xích lại gần nhau, chụm lại với nhau để cùng hướng tới cái Đẹp : Ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm
lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ (chi tiết dự báo ở đoạn trước quản ngục khêu thêm một con bấc).
-
Cùng thưởng thức tác phẩm nghệ thuật, tức là cái Đẹp với ánh nhìn của những người
tri kỉ : Ba người nhìn bức châm rồi lại
nhìn nhau
+ Cái
Đẹp có thể ra đời, nảy sinh từ mảnh đất chết nhưng cái đẹp không thể chung sống
cùng cái xấu, cái ác chỗ này không phải
là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những
cái hoài bão tung hoành của một đời con người.
+ Con
người muốn thưởng thức cái Đẹp trước hết phải là người lương thiện, tức là cái
Đẹp phải gắn với cái Thiện Hãy thoát khỏi
cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ.
+ Cái
Đẹp có khả năng cảm hoá con người Ngục
quan cảm động vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ
vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Đây là chi
tiết dự báo : Quản ngục sẽ thực hiện những lời khuyên của Huấn Cao, sẽ thay chỗ
ở, tìm về nhà quê ; sẽ thoát khỏi cái nghề xấu, nghề ác, giữ thiên lương cho lành vững, không để nhem nhuốc mất cái đời lương thiện.
* Quan niệm của nhà văn về con người : Con người không phải
bao giờ cũng là sản phẩm của hoàn cảnh. Quản ngục là người quản lí nhà tù nhưng
lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, có những sở thích cao quý. Đó là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản
đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ, là mặt
nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ, là con người có tâm điền tốt và thẳng thắn à cách nhìn nhận, đánh
giá con người rất cởi mở (do khuynh hướng, bút pháp lãng mạn chi phối, khác các
nhà văn hiện thực phê phán cùng thời quan niệm con người bao giờ cũng là sản phẩm
của hoàn cảnh).
4. Nguyên nhân
a. Nét chung
-
Hai tác giả đều là nhà văn lãng mạn 1930-1945, tuân thủ nghiêm ngặt qui định
sáng tác của văn học lãng mạn.
-
Cả hai tác phẩm đều mang màu sắc lãng mạn, thể hiện cái nhìn và những ấn tượng
riêng, chủ quan của nhà văn về cuộc sống và con người.
b. Nét riêng
-
Xét về mức độ và những biểu hiện cụ thể, có thể thấy Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là mẫu mực của kiểu sáng tác lãng mạn
còn Hai đứa trẻ của Thạch Lam là sự kết
hợp của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn. Bởi vậy cho nên, tuy tác phẩm có gieo
vào lòng người đọc những cảm xúc bâng khuâng, những tình cảm man mác và gợi trí
tưởng tượng bay bổng nhưng đồng thời cũng đem đến những cảm nhận thấm thía về
hiện thực đời sống con người.
- Do yêu cầu sáng tạo của văn học nghệ thuật
nói chung và do cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn nói riêng.
5. Đánh giá khái quát
-
Khẳng định lại đối lập là một thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học lãng mạn.
Thủ pháp đó đã được thể hiện rõ nét qua hai đoạn văn.
-
Sự vận dụng triệt để thủ pháp đối lập ở hai nhà văn đã tạo nên những trang văn
hay và đẹp, góp phần làm phong phú thêm dòng văn học lãng mạn và làm giàu nền
văn học dân tộc.
Đề 7
Phân tích trong thế đối sánh để thấy được sự giống
và khác nhau giữa hai nhân vật tôi
trong hai truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa (Nguyễn Minh Châu) và Một người Hà
Nội (Nguyễn Khải) (theo Ngữ văn 12
Nâng cao, tập hai, NXBGD, HN hiện hành)
Tìm
hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai nhân vật trong hai tác phẩm, của hai tác giả,
cùng giai đoạn, cùng thể loại, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Sự giống và khác nhau giữa hai nhân vật tôi
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh,
so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Hai truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) và Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)
Lập
dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải ;
hai tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Một người Hà Nội ; vấn đề cần nghị luận
2. Sự giống và khác giữa hai nhân vật tôi trong hai tác phẩm
2.1. Giống
-
Đều đóng vai trò là người kể chuyện
-
Đều là một nhân vật trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện
-
Đều là người lính phục viên chuyển công tác
- Đều
có những quan sát, nhận xét, đánh giá về các nhân vật trong truyện, nhất là
nhân vật chính
-
Đều trải qua một quá trình tự nhận thức.
2.2. Khác
a. Nhân vật tôi
trong Chiếc thuyền ngoài xa - Phùng
* Là người nghệ
sĩ săn tìm cái đẹp, có tâm hồn,
trái tim nhạy cảm
+ Thái độ kiên trì mai phục suốt tuần lễ ở bờ biển để kiếm
tìm cái đẹp.
+ Tâm trạng xúc động, hạnh phúc khi
phát hiện được cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích, một bức
tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ, cái
đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh :
- Vô cùng xúc động trước vẻ đẹp
mà thiên nhiên và cuộc sống đã ban tặng cho con người Bối rối trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào.
- Cảm thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn vì ngỡ mình
vừa khám phá ra chân lí của cái đẹp, cái đẹp có tác dụng thanh lọc tâm hồn con
người, hay nói như ai đó, bản thân cái đẹp
chính là đạo đức. Trong giây phút bối
rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn.
+ Hành động chẳng lựa chọn xê dịch, gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm
liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim.
* Là người tốt, quan
tâm và sẵn sàng hi sinh vì người khác
+ Chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ,
anh kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu,
tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn.
Thế rồi chẳng biết từ bao giờ tôi đã vứt
máy ảnh chạy nhào tới để can ngăn, bênh vực người vợ.
+ Đánh nhau với người chồng để bảo vệ
người vợ và bị thương nhẹ.
+ Cùng với Đẩu thuyết phục người đàn
bà hàng chài li dị, mục đích là để chị không còn bị chồng hành hạ.
* Cách nhìn đời,
nhìn người còn ít thực tế và còn bị chi phối bởi định kiến
+ Cảm thấy không chịu nổi, cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của
Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt quá và phải vén lá màn bước ra khi chứng kiến thái độ
cam chịu, nhẫn nhục đến mù quáng của
người đàn bà hàng chài Quý toà bắt tội
con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.
+ Quan niệm những người đã từng đi
lính Nguỵ thì rất tàn bạo, thể hiện qua câu hỏi : Lão ta trước hồi bảy nhăm
có đi lính nguỵ không ? (vì đã từng chứng kiến người chồng rút trong người
chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa đánh vợ).
+ Bất bình không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được khi chị cho biết Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lại xách
tôi ra để đánh.
* Trải qua quá trình tự nhận thức
+ Về
Đẩu : Trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy
suy nghĩ, một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng
biển.
+ Về
người đàn bà hàng chài : Tình thương con
cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời
hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài.
+ Về
bản thân : Ngộ ra mối quan hệ
giữa nghệ thuật và cuộc đời.
à Phùng là nhân vật tư tưởng. Qua nhân vật, Nguyễn
Minh Châu phát biểu quan niệm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, về
chủ nghĩa nhân đạo chân chính.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
+ Vừa là người kể chuyện, vừa là một
nhân vật trực tiếp tham gia vào câu chuyện; là người lính phục viên ; làm phóng
viên nhiếp ảnh ; là người hoàn toàn xa lạ với người đàn bà hàng chài nên thái độ,
tình cảm, nhận xét về chị hoàn toàn khách quan và công bằng.
+ Đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt
(chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ và câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở
toà án huyện) để từ đó nhân vật có điều kiện ngộ ra mối quan hệ giữa nghệ thuật
và cuộc đời : Nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời.
+ Khắc sâu những nhận thức sâu sắc, thấm
thía của nhân vật bằng chi tiết cuối cùng của tác phẩm khi ngắm kĩ, nhìn lâu hơn bức ảnh mình chụp.
+ Giọng văn nhỏ nhẹ, thấm thía, triết
lí rất phù hợp với quá trình tự nhận thức của nhân vật.
b. Nhân vật tôi
trong Một người Hà Nội (Khải)
* Là người chứng kiến và tham gia vào nhiều chặng
đường lịch sử của dân tộc
+ Năm 1954, với tư cách là một anh bộ
đội Cụ Hồ từ chiến khu Việt Bắc trở về tiếp quản thủ đô.
+ Sau 1954, trong thời kì cải tạo tư sản,
khôi phục kinh tế miền Bắc, có những cảm nhận về những việc được và chưa được của
chính phủ.
+ 1965, thời kì kháng chiến chống Mĩ,
tiếp tục đi bộ đội, sống những năm tháng đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất đỗi
hào hùng của dân tộc.
+ 1975, vui mừng trước đại thắng mùa
xuân.
+ Trong thời kì đổi mới, có bao chiêm
nghiệm, suy tư về lẽ đời ; về giai tầng
thượng lưu của xã hội làm chuẩn cho mọi giá trị :
- Sau 1975 : Là bọn lính, là giai cấp lính, cái mùi lính
tráng thâm nhiễm vào mọi nơi, mọi chỗ, quan hệ kiểu lính, vui chơi kiểu lính,
ăn nói kiểu lính, văn chương cũng là một mùi lính.
- Sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm (1990) : Tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn... Bây
giờ là thời các giám đốc công ti, các tổng giám đốc công ti, các cố vấn, chuyên
viên kinh tế thật, giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả
xã hội.
à Lịch sử thay đổi, xã hội thay đổi, con người
thay đổi, mọi chuẩn mực của xã hội cũng đổi thay.
* Là người từng trải, quan sát sắc sảo, suy
nghĩ sâu sắc
+ Về cô Hiền : Trải qua quá trình tự
nhận thức, từ hiểu sai đến hiểu đúng, thể hiện cái nhìn đa diện, nhiều chiều,
sâu sắc và khách quan.
- Lúc đầu nghi ngại, không muốn dính líu vì đinh ninh cô Hiền là tư sản.
- Sau đó, qua một thời gian
dài (1955-1990) gặp gỡ, tiếp xúc, quan sát, nhân vật tôi dần hiểu và thầm đồng tình với cô Hiền về mọi việc.
- Cuối cùng khâm phục, ngưỡng
mộ, tự hào, ca ngợi : Cô vẫn là người của
hôm nay, một người Hà Nội của hôm nay, thuần tuý Hà Nội không pha trộn ; bà già
vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá ; một hạt bụi vàng của Hà Nội.
+ Về Hà Nội so với thành phố Sài Gòn,
Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn ; (năm 1990) Hà Nội đã sống lại phần xác, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn
nghe những người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường
là đủ rõ.
+ Về con người Hà Nội (so với người
dân Sài Gòn) là những con người có nhiều phẩm chất tốt đẹp, tuy nhiên, một bộ
phận người Hà Nội do bị cuốn vào cuộc sống xô bồ, vụ lợi thời kinh tế thị trường
trở nên thiếu lịch thiệp, nhã nhặn.
* Là người giàu tình cảm
+ Gắn bó thiết tha với vận mệnh của đất
nước qua các giai đoạn, các thời kì lịch sử Nước được độc lập vui quá cô nhỉ...
+ Trân trọng những giá trị văn hoá cổ
truyền của dân tộc : Rất xúc động trước hình ảnh cô Hiền, một bà già ngoài 70
tuổi đang lau đánh bát thuỷ tiên ; thầm nuối tiếc một thú chơi tao nhã, thú
chơi hoa thuỷ tiên của người Hà Nội đang dần bị mất đi trong thời buổi kinh tế
thị trường ; thầm lo ngại cho lối cư xử thiếu văn hoá, lễ độ của một bộ phận
người Hà Nội…
+ Yêu mến, cảm phục nhân dân mình sống
một đời bình dị mà toả sáng nhân cách cao cả : Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà
bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng !
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
+ Vừa là người kể chuyện, vừa là một
nhân vật trực tiếp tham gia vào câu chuyện, quan hệ là cháu họ xa với nhân vật
chính, cô Hiền, một người Hà Nội. Do
đó điểm nhìn trần thuật chân thật và khách quan.
+ Yếu tố tự truyện rất đậm khiến câu
chuyện trở nên chân thật, hấp dẫn, có tính đối thoại dân chủ với người đọc.
+ Đặt nhân vật vào nhiều hoàn cảnh,
tình huống gặp gỡ với các nhân vật khác, ứng với từng giai đoạn, thời kì lịch sử
và được kể trong từng đoạn (7 đoạn). Đó cũng chính là quá trình tự nhận thức của
nhân vật.
+ Giọng văn vừa vui đùa, khôi hài, vừa
khôn ngoan, trải đời, rất phù hợp với tính cách của nhân vật.
3. Lí giải nguyên
nhân
a. Giống
- Hai tác giả đều sinh trước 1945 (1930), đều vào bộ
đội năm 1950, đều là những nhà văn trưởng thành trong quân đội qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, sau 1975 tiếp tục sáng tác với nhiều đóng
góp, sáng tạo mới, do đó có thể nói đều rất từng trải. Sự từng trải đó thể hiện
rõ trong việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật (của một nhân vật trong câu chuyện)
; chọn ngôi kể (ngôi thứ nhất) ; giọng văn giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều
chiêm nghiệm (của Nguyễn Khải), giản dị mà sâu sắc, thấm thía, nhiều dư
vị (của Nguyễn Minh Châu).
- Về vị trí, cả hai nhà văn đều được đánh giá rất
cao : Nguyễn Khải thuộc số những cây bút hàng đầu của văn xuôi Việt Nam từ
sau Cách mạng Tám 1945. Hành trình sáng tác của Nguyễn Khải tiêu biểu cho quá
trình vận động của văn học dân tộc hơn nửa thế kỉ qua ; Nguyễn Minh Châu
đã trở thành một trong những người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn
học nước nhà từ sau năm 1975. Điều đó thể hiện rõ ở hai tác phẩm, trong đó
có việc xây dựng thành công hai nhân vật tôi.
- Hai tác phẩm đều thuộc giai đoạn sáng tác sau
1975 quan tâm tới số phận cá nhân trong cuộc sống đời thường : Sau 1978,
sáng tác của Nguyễn Khải ngả dần sang cảm hứng triết luận và có sự quan tâm đến
số phận cá nhân trong cuộc sống đời thường ; từ đầu thập kỉ tám mươi
Nguyễn Minh Châu chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và
triết lí nhân sinh. Do đó, trong hai tác phẩm, hai nhà văn đã xây dựng hai
nhân vật tôi để thông qua đó gián tiếp phát biểu những quan niệm
về con người ; về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống ; về chủ nghĩa nhân
đạo chân chính...
b. Khác
- Do yêu cầu sáng tạo của văn học nghệ thuật nói
chung
- Do cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn nói riêng.
4. Đánh giá khái quát
-
Với hai nhân vật tôi, hai tác phẩm đã
có một điểm nhìn trần thuật hết sức khách quan, chân thật, đúng đắn, sâu sắc
góp phần không nhỏ vào thành công của hai tác phẩm, khẳng định tên tuổi, vị trí
của nhà văn.
-
Xây dựng thành công hai nhân vật tôi
là đóng góp của hai nhà văn vào hệ thống nhân vật đặc sắc của nền văn học dân tộc.
--------------------
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH
CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN
Rèn kĩ năng làm văn cho học
sinh là yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc đối với giáo viên dạy học môn Ngữ văn ở các cấp học.
Đối với
cấp THPT, yêu cầu đó lại càng đặt ra bức thiết hơn, bởi đối tượng học sinh
THPT, đặc biệt là học sinh lớp 12, chuẩn bị tốt nghiệp ra trường, bước chân vào
giảng đường Đại học – Cao đẳng làm bài tập tiểu luận, khoá luận, luận văn… nếu
không có kĩ năng sẽ không thể làm được. Thực tế đã chứng minh, có những sinh viên,
thậm chí đã tốt nghiệp, đi làm, đơn giản nhất là một lá đơn cũng không biết viết
cho đúng qui cách.
Ở cấp
THPT, học sinh được rèn nhiều kĩ năng, trong đó người giáo viên cần đặc biệt chú
trọng rèn kĩ năng làm một bài văn nghị luận xã hội và nghị luận văn học để học
sinh làm các bài kiểm tra định kì, tham gia các kì thi 8 tuần, thi học kì, thi
lên lớp, thi Tốt nghiệp, thi học sinh giỏi Tỉnh, Quốc gia, thi Đại học – Cao đẳng.
Vì đây là hai câu bao giờ cũng xuất hiện trong các đề thi, đặc biệt là câu nghị
luận văn học bao giờ cũng chiếm số điểm cao hơn so với câu nghị luận xã hội. Nếu
câu nghị luận văn học chỉ là về một tác phẩm/đoạn trích… nói chung đơn
giản, học sinh dễ dàng làm được. Nhưng nếu là nghị luận về nhóm tác phẩm/đoạn
trích… thì sẽ khó và phức tạp, đòi hỏi học sinh tư duy tổng hợp - so sánh. Dạng
đề này rất phù hợp với đối tượng học
sinh giỏi thi Tỉnh, thi Quốc gia, học sinh thi Đại học – Cao đẳng môn Ngữ văn. Và những
câu này được coi như một thử thách đối với học sinh. Ngay cả với giáo viên, việc
biên soạn được một câu và đáp án dạng đề này hay và chuẩn chỉ, quả thực không đơn
giản, dễ dàng, đòi hỏi rất nhiều tâm trí.
Đi sâu
tìm hiểu, nghiên cứu dạng đề này nhiều năm qua, chúng tôi đã rút ra được một số
kinh nghiệm trong việc giảng dạy và biên soạn đề, đáp án. Sau đây, tôi xin được
mạnh dạn trao đổi, chia sẻ cùng các đồng nghiệp, đồng môn trong Hội. Kính mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của
các Quí Thầy, Quí Cô.
I.
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH - MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
-
Kiểm tra kiến thức về nhóm tác giả, tác phẩm / đoạn trích, nhân vật, hình ảnh, chi tiết…
- Khả
năng tổng hợp, so sánh, tư duy
lô-gíc, chặt chẽ…
- Khả
năng lập luận khúc chiết, mạch lạc, rõ ràng…
- Khả
năng lí giải sâu sắc, thuyết phục
- Khả
năng đánh giá khái quát
- Khả
năng kết hợp nhiều thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…
Từ đó,
ta thấy dạng đề Tổng hợp
- So sánh, nghị luận về nhóm
tác phẩm / đoạn trích yêu cầu, đòi hỏi học sinh cao hơn rất nhiều so với những
đề nghị luận về một tác phẩm / đoạn trích, vì vậy, rất thích hợp với đối
tượng là học sinh giỏi và học sinh thi Đại học - Cao đẳng, chủ yếu là khối C,
D. Thực tế nhiều năm gần đây, đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh, cấp Quốc gia, đề
thi Đại học - Cao đẳng đã ra vào dạng đề Tổng hợp - So sánh và đề của những năm đó đã được dư luận đánh giá
rất cao.
II.
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – CÁC KHẢ NĂNG CÓ THỂ GẶP
- So
sánh nhóm tác giả cùng giai đoạn hoặc khác giai đoạn ; cùng thể loại hoặc khác
thể loại…
- So
sánh nhóm tác phẩm / đoạn trích của nhóm tác giả hoặc của cùng một tác giả ;
cùng thể loại hoặc khác thể loại…
- So sánh
nhóm tác phẩm/đoạn trích của nhóm tác giả cùng đề tài hoặc cùng cảm hứng trong
một giai đoạn hoặc khác giai đoạn…
- So
sánh nhóm nhân vật trong một tác phẩm / đoạn trích hoặc nhóm tác phẩm / đoạn trích…
- So
sánh nhóm chi tiết hoặc nhóm hình ảnh, hình tượng… trong nhóm tác phẩm / đoạn
trích…
- So
sánh nhóm giai đoạn văn học…
- So
sánh nhóm đoạn văn hoặc đoạn thơ…
-…
Ví dụ một số đề :
Đề 1 : Phong vị dân gian trong hai bài thơ Tương tư (Nguyễn Bính) và Việt
Bắc (Tố Hữu) ?
Đề 2 : So sánh sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của hai
nhà văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua hai đoạn trích Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Đề 3 : Hình ảnh sông Đà, sông Hương qua hai đoạn trích Người lái đò
Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
Đề 4 : Phân tích trong thế đối sánh hai nhân vật
Mị và A Phủ trong Vợ chồng A Phủ (Tô
Hoài).
Đề 5 : Vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng
vào cuộc sống của các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn
Vợ nhặt (Kim Lân) ?
Đề 6 : Hình tượng người phụ nữ trong hai truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt ?
Nhận xét
- Đối tượng nghị luận : Hai tác giả /
tác phẩm / đoạn trích / nhân vật / hình ảnh…
- Thao tác nghị luận : Vẫn là các thao
tác phân tích, chứng minh, giải thích,… nhưng khác ở chỗ là trên cơ sở tổng hợp
- so sánh
ở nhóm tác phẩm / đoạn trích.
-
Phạm vi dẫn chứng : Không phải là một tác phẩm / đoạn trích mà là hai bài thơ Tương tư và Việt Bắc / hai truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ và Vợ nhặt
- Dạng đề : Tổng hợp – So sánh
III.
DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – NGUYÊN TẮC
- Trong
đề bài xuất hiện từ hai tác giả, tác phẩm, nhân vật, hình tượng, đề tài, hình ảnh,
chi tiết… trở lên phải nghĩ ngay đến dạng đề Tổng hợp - So sánh.
- Đã là
Tổng
hợp - So sánh thì nhất thiết
Thân bài phải có 2 luận điểm
: giống – khác / chung - riêng… tuỳ yêu cầu cụ thể của từng đề mà đặt tiêu đề
cho phù hợp.
- Đã là
Tổng
hợp - So sánh thì nhất thiết
phải chỉ ra nguyên nhân giống – khác / chung – riêng.
IV. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH – CÁCH LÀM
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề
Giáo
viên hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề về :
- Đối tượng nghị luận : còn có thể gọi là vấn đề cần nghị luận, nội dung cần nghị luận.
- Thao tác nghị luận : Thông thường là các thao tác phân
tích, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : bao giờ cũng phải từ hai tác giả /
tác phẩm / đoạn trích, nhân vật / hình tượng / hình ảnh / chi tiết… trở lên.
Ngoài ra, có thể liên hệ mở rộng tới các tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật,
hình tượng, hình ảnh, chi tiết… khác có những nét tương đồng hoặc đối lập.
- Dạng đề : Tổng hợp
- So sánh
2. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý
Giáo
viên hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho
dạng đề Tổng hợp - So sánh với 4 bước
cơ bản nhất :
Bước 1. Giới thiệu : Nhóm tác giả,
tác phẩm, đoạn trích (nếu đề yêu cầu) và đối tượng nghị luận
Bước 2. Tổng hợp - So sánh theo yêu cầu của đề (luận điểm đảm bảo nguyên tắc giống - khác / chung – riêng)
Bước 3. Lí giải
nguyên nhân giống – khác / chung – riêng
Bước 4. Đánh giá khái
quát
3. Hướng dẫn học sinh viết từng phần
- Phần
giới thiệu (Mở bài) : Giáo viên hướng
dẫn học sinh giới thiệu khái quát về nhóm tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật…
và đối tượng (vấn đề, nội dung) cần nghị luận.
Lưu
ý : Nếu phần giới thiệu nhiều thông
tin, có thể đẩy bớt xuống đầu phần Thân
bài, tránh Mở bài quá dài, gây
cảm giác nặng nề.
- Phần Tổng hợp - So sánh theo yêu cầu của
đề (Thân
bài) : Giáo viên hướng dẫn học sinh viết từng luận điểm, luận cứ, từng ý lớn,
ý nhỏ… Trong quá trình viết có thể liên hệ mở rộng tới các tác giả, tác phẩm, đoạn trích, nhân vật, hình tượng, hình ảnh,
chi tiết… khác có những nét tương đồng hoặc đối lập… đảm bảo tất cả đều phải bám sát, phù hợp yêu cầu của đề, tập trung làm
rõ yêu cầu của đề, tuyệt đối tránh xa đề, lạc đề, dàn trải, lan man…
-
Phần lí giải nguyên nhân giống – khác / chung – riêng : có thể do những
yếu tố khách quan, chủ quan ; do hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh cụ thể ; do đặc
trưng thể loại, khuynh hướng, trào lưu ; do yêu cầu của văn học nghệ thuật nói
chung, do cá tính sáng tạo của nhà văn nói riêng…
- Phần đánh giá khái quát (Kết
bài) : Giáo viên hướng dẫn học sinh vừa khái quát, vừa nâng cao vấn đề,
tránh qua quýt, sơ sài, đại khái.
4. Hướng dẫn học sinh viết thành bài hoàn chỉnh
Giáo
viên hướng dẫn học sinh viết thành bài hoàn chỉnh trong thời gian qui định (khoảng
90 -> 100 phút/180 phút đề thi học sinh giỏi / đề thi Đại học - Cao đẳng) sau đó chấm, chữa,
trả để học sinh rút kinh nghiệm. Giáo viên cần sửa kĩ, chấm sát, tránh chấm chữa
qua loa, đại khái hoặc cho điểm cao so với chất lượng thực sự của bài viết gây ảo
tưởng cho học sinh, việc rèn luyện sẽ không đạt hiệu quả mong muốn.
V. DẠNG ĐỀ TỔNG HỢP - SO SÁNH –
VÍ DỤ
MINH HOẠ
Đề 1
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ
Ngọc Tường là hai nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo và đặc biệt sở trường
về thể tuỳ bút, bút kí.
Qua hai đoạn trích Người
lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) và Ai đã đặt tên cho dòng sông ? (Hoàng Phủ Ngọc Tường), theo Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1,
anh/chị hãy so sánh sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ thuật của hai
nhà văn.
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai tác giả, hai tác phẩm, cùng thể
loại, khác giai đoạn, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Sự giống và khác nhau trong phong cách nghệ
thuật của hai nhà văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt
tên cho dòng sông ?
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả, hai tác phẩm, vấn đề cần
nghị luận
2. Khái niệm phong cách nghệ thuật của nhà văn : Là cái nhìn độc đáo của
nhà văn đối với đời sống được biểu hiện thành các phương tiện hình thức nghệ
thuật tương đối bền vững, lặp đi lặp lại như : Thể loại, loại cốt truyện, kiểu
kết cấu, kiểu nhân vật, câu văn, giọng
điệu, nhịp điệu, hình ảnh…
3. So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường qua Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
3.1. Giống
a. Tài hoa : Luôn nhìn cuộc sống, sự vật, con người ở phương diện, góc độ văn
hoá thẩm mĩ nên phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của hiện thực cuộc sống.
* Nguyễn Tuân
+ Nhìn sông Đà ở góc độ
thẩm mĩ để phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình của con sông:
- Dáng sông : Nhìn từ trên
cao, sông Đà được ví như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, một áng tóc
trữ tình tuôn dài, tuôn dài… rất mềm mại, nên thơ.
- Màu nước : Có 2
màu thay đổi theo mùa : Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ
chín đỏ, đều là những gam màu đẹp trong hội hoạ.
- Hai bên bờ sông, khi đã
hết thác ghềnh, có sự gợi cảm rất đặc biệt : Hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa, ở đó có chất thơ Đường, thơ Tống, gợi cho ta nhớ đến thơ
Tản Đà…
+ Nhìn người lái đò ở góc
độ nghệ sĩ để phát hiện ra tài năng trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh :
- Sông Đà hung bạo nhưng người lái đò vẫn tự do đi lại trên sông. Tự do là khi nắm được qui luật tất yếu. ở
đây là qui luật của đá và nước sông Đà. Người lái đò nắm chắc được qui luật
tất yếu của đá và nước sông Đà nên trên thác hiên ngang một người lái đò
Sông Đà có tự do.
- Để chứng minh tài nghệ
của người lái đò, tác giả đã hư cấu một cuộc vượt thác sông Đà :
/ Sông Đà hung bạo bày trùng
vi thạch trận để tiêu diệt tất cả những gì đi trên sông.
\ Đối lập với sông Đà hung
bạo là người lái đò đơn độc, chỉ với một thứ vũ khí thô sơ là cái bánh lái nhưng đã
vượt qua được trùng vi thạch trận của sông Đà với 3 vòng liên tiếp, với rất
nhiều cửa tử, cửa sinh lập lờ,… để lại sau lưng tiếng reo hò bất lực của dòng
sông.
* Hoàng Phủ Ngọc Tường : Nhìn sông Hương ở góc độ văn hoá thẩm mĩ để phát hiện ra vẻ đẹp của
con sông. Sông Hương :
- Có vẻ đẹp phóng
khoáng, man dại, rầm rộ, mãnh liệt, một bản trường ca của rừng già khi nó
đi qua giữa lòng Trường Sơn.
- Có vẻ đẹp dịu dàng và
trí tuệ khi sông Hương trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá
đất đế đô.
- Có vẻ đẹp biến hoá, hư
ảo như phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím”.
- Có vẻ đẹp trầm mặc
khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm
u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn.
- Có vẻ đẹp mang màu sắc triết
lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ.
- Có vẻ đẹp vui tươi
khi đi qua những bờ bãi xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long.
- Có vẻ đẹp mơ màng
trong sương khói khi nó rời xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
b. Uyên bác : Là sự hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và có thể
cung cấp, đóng góp, lí giải những kiến thức đó cho người khác.
* Nguyễn Tuân
+ Trong tác phẩm, ông hay
vận dụng những tri thức của rất nhiều ngành nghệ thuật, thậm chí cả những ngành
không liên quan gì đến nghệ thuật để miêu tả, khám phá, hiện thực. Nó có tác
dụng làm cho người đọc nhìn hiện thực ở nhiều góc độ và cung cấp cho người
đọc một lượng thông tin hết sức phong phú ngoài văn chương.
+ Ở Người lái đò Sông Đà, tác giả đã vận dụng tri thức của rất nhiều
ngành để miêu tả tính cách hung bạo cũng như vẻ đẹp trữ tình của dòng sông :
- Tri thức của những ngành
nghệ thuật :
/ Đó là kiến thức của
ngành điện ảnh khi tác giả miêu tả tính hung bạo của con sông ; khi ông tưởng
tượng những nhà quay phim dũng cảm quay cái hút nước.
/ Đó là kiến thức của
ngành hội hoạ khi ông miêu tả màu nước sông Đà.
/ Đó là kiến thức của
ngành kiến trúc, điêu khắc khi ông miêu tả sông Đà nhìn từ trên cao ; khi miêu
tả hình dáng những hòn đá nơi lòng sông.
- Tri thức của những ngành
khác tưởng như không liên quan gì đến nghệ thuật :
/ Ngành địa lí, lịch sử :
Đó là khi ông nói tới chiều dài con sông ; tên gọi sông Đà qua các thời kì lịch
sử.
/ Ngành quân sự, võ thuật,
thể dục thể thao : Đó là cách miêu tả cảnh thuỷ chiến trên sông Đà với rất
nhiều thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể dục thể thao.
/ Ngành khí tượng thuỷ
văn : Đó là khi miêu tả các con thác, sức nước chảy.
* Hoàng Phủ Ngọc Tường : Huy động nguồn tri thức phong phú, thuộc các lĩnh vực địa lí, lịch
sử, văn hoá, để xây dựng hình tượng sông Hương :
+ Vẻ đẹp thiên nhiên của
sông Hương là kết quả của những tri thức địa lí và khả năng quan sát sắc sảo
của người trần thuật : Sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất, thành phố
Huế và nó mang trong mình tính cách Huế, như một cô gái Huế duyên dáng, điểm
tô cho vẻ đẹp Huế.
+ Vẻ đẹp văn hoá của sông
Hương là kết quả của những tri thức văn hoá về một thành phố, từng là
chốn đế đô. Sông Hương tự bản thân nó đã mang những phẩm chất văn hoá độc đáo.
Nó gắn với nhạc cổ điển và những đêm ca Huế trên sông, gắn với Nguyễn Du và
khúc nhạc Tứ đại cảnh, nó là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca.
+ Vẻ đẹp lịch sử của sông
Hương là kết quả của những tri thức về lịch sử sông Hương gắn với lịch
sử anh hùng của xứ Huế, của đất nước…
3.2. Khác
a. Nguyễn Tuân
* Có cảm hứng đặc biệt với cái dữ dội và cái tuyệt mĩ.
* Trong Người lái đò Sông Đà : Nhà văn đã nhìn Sông Đà ở góc
độ khắc nghiệt của thiên nhiên để phát hiện ra tính cách hung bạo của con sông.
Sự dữ dội của sông Đà thể hiện ở đá và nước.
+ Đá sông Đà :
- Đá bờ sông : Dựng vách thành, tuy không nguy hiểm
nhưng nó tạo cho người ta cái cảm giác sợ hãi, rợn ngợp trước thiên nhiên
bao la, hùng vĩ.
- Đá lòng sông :
Chia thành các vòng, các lớp. Mỗi lớp đá, hòn đá có một nhiệm vụ khác nhau song tất cả đều nhằm
mục đích tiêu diệt tất cả những gì đi trên sông, là kẻ thù nguy hiểm và hung
bạo nhất.
+ Nước sông Đà :
- Những cái hút nước : Giống như cái giếng bê tông thả
xuống sông. Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút
xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn.
- Những cái thác nước : Tiếng nước réo gần mãi lại réo
to mãi lên như là oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo ; rống
lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng.
+ Đá và nước phối
hợp với nhau : Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm tạo thành trùng vi thạch trận, là kẻ thù số một của tất cả
những người lái đò sông Đà.
b. Hoàng Phủ Ngọc Tường
* Đậm chất trữ tình, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi.
* Trong Ai đã đặt tên cho
dòng sông ?
+ Giàu trí tưởng tượng
lãng mạn :
- Sông Hương trong trí tưởng tượng lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường có lúc như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại ; có
lúc trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở ; có lúc lại là
người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại.
- Đặc biệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hình dung tưởng tượng
hành trình sông Hương đến với thành phố Huế giống như hành trình của người con
gái đi tìm gặp người yêu ; và trước khi về biển cả, sông Hương đột ngột đổi
dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn
Bao Vinh xưa cổ giống như Thuý Kiều trở lại tìm Kim Trọng trong đêm tình
tự.
+ Giàu tình cảm, say
mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế : Tất cả những phát hiện về vẻ đẹp của
sông Hương, xét đến cùng, bắt nguồn từ tình cảm thiết tha đến đắm say của tác
giả đối với cảnh và người xứ Huế. Nếu không có tình yêu đối với xứ Huế thì
không thể có những trang văn hay và đẹp đến thế về xứ Huế.
4. Lí giải nguyên nhân
a. Giống
- Đều là những con người
có tài, rất mực tài hoa uyên bác.
- Đều là những con người
có tâm, là những trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
- Đều là những nhà văn có
phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đều tìm đến với thể tuỳ bút, bút kí.
b. Khác : Đều là những nhà văn có ý thức cá nhân sâu sắc, có cá tính sáng tạo.
Đó cũng chính là qui luật tất yếu của sáng tạo nghệ thuật.
5. Đánh giá khái quát
- Hai nhà văn với những
nét giống và khác trong phong cách nghệ thuật đã có những đóng góp không nhỏ để
tạo nên sự phong phú, đa dạng mà vẫn thống nhất của nền văn học dân tộc.
- Người đọc yêu mến, tự
hào bởi họ đã góp phần tô điểm cho đất nước bằng những trang văn thật đẹp, thật
sang.
Đề 2
Nhân đạo là một trong
hai cảm hứng chủ đạo xuyên suốt nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo đó ở
văn học từ 1930 đến 1945 có gì giống và khác ở văn học từ 1945 đến 1975 ?
Hãy phân tích và
chứng minh qua hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao (theo Ngữ văn 11,
tập một) và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (theo Ngữ văn 12, tập
hai).
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai giai đoạn, hai tác phẩm, của hai
tác giả, cùng thể loại, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Cảm hứng nhân đạo ở văn học từ 1930 đến 1945
có gì giống và khác ở văn học từ 1945 đến 1975 ?
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Vấn đề cần nghị luận, hai tác giả, hai tác phẩm
2. So sánh sự giống và khác của cảm hứng nhân đạo trong văn học Việt
Nam từ 1930 đến 1945 và từ 1945 đến 1975
2.1. Giống
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người, nhất là tầng lớp nhân dân cực khổ
lầm than
- Tố cáo, lên án những thế lực bạo tàn gây đau khổ cho con người
- Đồng cảm với những số phận bất hạnh
- Đồng tình với ước mơ, nguyện vọng chính đáng của con người và
khát khao đổi thay số phận cho họ.
2.2. Khác
+ Văn học từ 1930 đến 1945
- Coi con người là nạn
nhân bất lực của hoàn cảnh.
- Khao khát đổi thay số
phận cho con người nhưng bế tắc, bất lực.
+ Văn học từ 1945 đến 1975
- Quan niệm con người
không phải là nạn nhân của hoàn cảnh mà có khả năng cải tạo hoàn cảnh.
- Khẳng định và tin tưởng
khả năng cách mạng của con người dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp họ nhanh
chóng đổi thay số phận.
2.3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống : Đều là các nhà văn chân chính, đều là những nhà nhân đạo từ
trong cốt tuỷ (Sê-khốp).
b. Khác
: Do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ tư tưởng.
- Các nhà văn 1930-1945 (chủ yếu là các nhà văn hiện thực phê phán)
: Mang ý thức hệ tư sản, tiểu tư sản, hầu hết chưa tham gia cách mạng nên
mới chỉ thấy tác động một chiều của hoàn cảnh đối với con người, nhìn con người
và hiện thực xã hội có phần bi quan.
- Các nhà văn 1945-1975 : Đồng thời là những chiến sĩ cách mạng,
trực tiếp tham gia vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, thấm nhuần
tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản nên có tinh thần lạc quan cách mạng, thấu
suốt tương lai.
3. Phân tích, chứng minh qua Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
3.1. Giống
a. Ca ngợi vẻ đẹp của con người
* Chí Phèo : Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn
của người nông dân như :
+ Chí Phèo : Nhiều lần khẳng
định bản chất hiền lành, lương thiện của Chí, ngay cả khi Chí là con quỉ dữ
của làng Vũ Đại.
+ Thị Nở : Bản chất nhân
hậu.
* Vợ chồng A Phủ : Ca ngợi vẻ đẹp người lao động miền núi Tây Bắc :
+ Vẻ đẹp hình thức :
- Mị : Gián tiếp qua chi
tiết trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị; qua việc Pá Tra đến hỏi Mị làm con dâu trừ nợ ; qua việc A Sử bắt Mị
về làm vợ.
- A Phủ : Khoẻ mạnh, cường
tráng, nam tính.
+ Vẻ đẹp tâm hồn, tính
cách :
- Mị : Yêu đời, yêu cuộc
sống ; yêu tự do ; yêu lao động ; hiếu thảo ; sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.
- A Phủ : Tự do ; mạnh mẽ
; cần cù lao động.
b. Tố cáo, lên án những thế lực bạo tàn gây đau khổ cho con người
* Chí Phèo : Tố cáo các thế lực :
+ Thực dân : Gián tiếp qua
hình ảnh nhà tù.
+ Phong kiến : Câu kết với
nhau bóc lột người nông dân đến tận xương tuỷ và đẩy họ vào con đường lưu
manh tha hoá, tiêu biểu là bá Kiến.
+ Thành kiến nghiệt ngã
của xã hội (lời bà cô thị Nở).
* Vợ chồng A Phủ : Lên án giai cấp thống trị
miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra :
+ Bóc lột người lao động
bằng cách cho vay nặng lãi và lợi dụng sức lao động của con người :
-
Mị phải làm dâu gạt nợ nhà
thống lí Pá Tra, món nợ truyền kiếp,
thực chất là một thứ người ở không công.
- A Phủ vay tiền của Pá
Tra để nộp vạ và trở thành người ở trừ nợ, người ở không công.
- Những người đàn bà
sống trong nhà thống lí Pá Tra, tuổi còn trẻ nhưng cái lưng đã còng rạp
xuống vì công việc.
+ Đày ải, biến người lao
động thành những nô lệ, phục vụ cho chúng :
- Mị : Trước khi về nhà
Pá Tra là một cô gái rất yêu đời, yêu cuộc sống. Sau khi về nhà Pá Tra chỉ còn
là con trâu, con ngựa, con rùa, lầm lũi cả ngày không nói, chỉ biết vùi vào
việc làm cả đêm cả ngày như một cỗ máy.
- A Phủ : Trước khi về
nhà Pá Tra là một thanh niên với tính cách tự do, mạnh mẽ, không sợ cường
quyền, bạo lực. Sau khi về nhà Pá Tra trở thành một nô lệ, làm lợi cho nhà
thống lí.
+ Cấu kết với thực dân
Pháp đàn áp phong trào cách mạng vùng cao : Bố con Pá Tra đã vào ở trong đồn
Tây.
c. Đồng cảm với những số phận bất hạnh
* Chí Phèo
+
Đồng cảm với số phận của Chí Phèo :
-
Miêu tả Chí như là nạn nhân của xã hội : Chí hiền lành, lương thiện ; thực
dân, phong kiến đã làm cho Chí tha hoá ; Chí khao khát hoàn lương
mà không được ; Chí phải chết đau khổ trên ngưỡng cửa của xã hội loài người.
- Sự
đồng cảm còn thể hiện ở những day dứt trong tiếng chửi của Chí ở đầu tác phẩm ;
những bế tắc của Chí trong câu hỏi ở cuối tác phẩm.
+
Đồng cảm với số phận thị Nở :
-
Miêu tả thị Nở với tất cả sự thiệt thòi nhất của hoá công : Xấu, nghèo, dở hơi,
dòng giống mả hủi.
- Sự
đồng cảm còn thể hiện ở việc thấu hiểu khát khao tình yêu, hạnh phúc của thị,
rất muộn mằn, khiêm tốn, chỉ là một người đàn ông như Chí Phèo nhưng cũng
không có được.
* Vợ
chồng A Phủ : Đồng cảm sâu sắc với số phận người lao động
nghèo ở miền núi như Mị và A Phủ :
- Miêu tả họ như là nạn nhân của món nợ truyền
kiếp.
- Miêu tả họ như là nạn nhân của tín ngưỡng
lạc hậu : Cả Mị, A Phủ và những người đàn bà khác đều tin rằng mình đã bị cúng
trình ma nhà thống lí Pá Tra cho nên chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi.
d.
Đồng tình ước mơ, nguyện vọng chính đáng của con người, khát khao đổi thay số
phận cho họ
- Ước mơ được sống tự do : Mị, A Phủ
- Khát khao tình yêu, hạnh phúc : Thị Nở, Mị
- Mong muốn được sống bình thường, lương
thiện : Chí Phèo.
3.2.
Khác
a. Chí Phèo
- Nam Cao nhìn những người nông dân như Chí
Phèo, thị Nở là những nạn nhân, sản phẩm của hoàn cảnh xã hội thực dân phong
kiến.
- Mặc dù đồng tình và khao khát đổi thay số
phận cho những người nông dân cùng hơn cả dân cùng, những con người dưới
đáy, bị xa lánh, hắt hủi nhưng tác giả cũng đành bất lực : Kết thúc tác phẩm
là sự chấm dứt đột ngột của mối tình Chí Phèo thị Nở, là cái chết bi phẫn của
Chí trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện, thể hiện cái nhìn bi quan
về tương lai của người nông dân.
b. Vợ chồng A Phủ
- Tô Hoài nhìn người lao động miền núi Tây Bắc
không phải là nạn nhân của hoàn cảnh mà là những người có khả năng cải tạo
hoàn cảnh.
- Đồng tình với khát vọng đổi thay số phận của
họ, quan trọng hơn, ông đã chỉ ra con đường tất yếu họ cần phải đi và khẳng
định khả năng đi tới với cách mạng của họ, đấu tranh tự giải phóng chính mình :
Mị, A Phủ đã giải thoát cho nhau, cùng nhau tới Phiềng Sa trở thành du kích.
4.
Đánh giá khái quát
- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước
là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những
biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do
ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau, lại có những biểu hiện
riêng.
- Sự giống và khác của cảm hứng nhân đạo ở hai
giai đoạn văn học tạo nên sự phong phú, đa dạng trong thành tựu của nền văn học
nước nhà về mặt nội dung tư tưởng.
Đề 3
Cảm nhận của anh/chị về hai hình ảnh cái lò gạch cũ trong truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao, theo Ngữ văn 11, tập một) và rừng xà nu trong truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Nguyễn Trung Thành (theo Ngữ văn
12, tập hai) ?
Tìm
hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 hình ảnh, trong 2 tác phẩm, của 2 tác giả,
khác giai đoạn, cùng thể loại.
- Đối tượng nghị luận : hai hình ảnh cái lò gạch và rừng xà nu
trong
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh,
so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Chí
Phèo và Rừng
xà nu
Lập
dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Nam Cao, Nguyễn Trung Thành ; hai
tác phẩm Chí Phèo, Rừng xà nu ; vấn đề cần nghị luận
2. Cảm nhận về hai hình ảnh
2.1. Giống nhau
-
Cả hai hình ảnh đều xuất hiện ở phần đầu và phần cuối của tác phẩm tạo nên kết
cấu đặc sắc đầu cuối tương xứng.
-
Cả hai đều được hiểu theo hai nghĩa, tả thực và ẩn dụ tượng trưng.
-
Cả hai đều rất ấn tượng, ám ảnh, là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, có ý nghĩa
sâu sắc, góp phần thể hiện nội dung tư tưởng chủ đề tác phẩm, do đó đều được
nhà văn lấy làm nhan đề tác phẩm (Chí
Phèo ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ).
2.2. Khác nhau
a. Hình ảnh cái lò gạch cũ
* Nghĩa tả thực : Cái lò nung gạch đã cũ, không còn sử dụng, bỏ
không, trước đây xuất hiện nhiều ở những vùng quê.
* Nghĩa ẩn dụ tượng trưng :
+ Hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện ở phần đầu
tác phẩm khi một anh đi thả ống lươn nhặt
được Chí Phèo trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái lò gạch
bỏ không và xuất hiện ở phần cuối tác phẩm khi Chí Phèo chết, thị Nở nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn… rồi nhìn
nhanh xuống bụng và đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ
không, xa nhà cửa và vắng người lại qua… ẩn dụ cho cái vòng luẩn quẩn của
những kiếp Chí Phèo. Chí Phèo bố chết đi rất có thể sẽ lại có một Chí Phèo con
ra đời và cuộc đời, số phận của nó cũng sẽ giống như bố nó, cũng sẽ lại rơi vào
con đường lưu manh tha hoá… Từ đó, tác giả muốn khẳng định : Chí Phèo không phải
là hiện tượng cá biệt mà đây là hiện tượng có tính phổ biến, qui luật trong xã
hội cũ. Khi nào còn tồn tại chế độ áp bức bóc lột của thực dân phong kiến thì
khi đó còn tồn tại những kiếp Chí Phèo.
+ Hình ảnh thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc của
Nam Cao đối với số phận người nông dân.
à Hình ảnh
cái lò gạch cũ tập trung thể hiện giá trị hiện thực tố cáo của tác phẩm và bộc
lộ hạn chế của Nam Cao.
b. Hình ảnh rừng xà nu
* Ý nghĩa tả thực :
+ Đoạn văn mở đầu tác phẩm giới thiệu với người
đọc gần như đầy đủ các thông tin về một loài cây ở Tây Nguyên, đó là cây xà nu
:
- Hình dáng : Khi còn nhỏ hình nhọn mũi tên lao
thẳng lên bầu trời ; khi đã trưởng thành cành
lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ.
- Đặc điểm : Sinh trưởng rất khoẻ, một cây ngã xuống có bốn
năm cây con mọc lên để thay thế (cấp số nhân) ; ưa ánh sáng mặt trời đến kì lạ,
phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng,
thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp ; có
nhựa, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh
nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.
+ Rải rác trong suốt tác phẩm, hình tượng cây
xà nu trở đi trở lại với ý nghĩa tả thực tác dụng của nó đối với đời sống con
người : Gỗ xà nu làm củi ở mỗi bếp ; khói xà nu làm đen bảng để trẻ con học chữ
; nhựa xà nu làm đuốc để thắp sáng…
à Cây xà
nu gắn bó thân thiết với đời sống dân làng Xô Man.
* Ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng :
+ Rừng xà nu như một nhân vật tham gia
vào kết cấu câu truyện :
- Mở đầu tác phẩm là đoạn văn
miêu tả rừng xà nu trong bom đạn của kẻ thù. Kết thúc đoạn văn là hình ảnh : Những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
- Kết thúc tác phẩm là hình ảnh
: Những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân
trời.
à Như vậy,
rừng xà nu tạo nên kết cấu vòng tròn đầu cuối tương xứng. Đây cũng là lí do giải
thích vì sao tác phẩm có tên là Rừng xà
nu.
+ Rừng xà nu như một nhân vật tham gia, chứng
kiến những sự kiện có ý nghĩa trọng đại của dân làng Xô Man :
- Đêm đêm người dân Xô Man thức mài vũ khí dưới
ánh lửa xà nu. Hoạt động này đánh dấu giai đoạn chuẩn bị nổi dậy.
- Giặc đốt mười đầu ngón tay của Tnú bằng nhựa
xà nu. Hành động này làm bùng lên ngọn lửa căm thù của dân làng Xô Man vốn âm ỉ
đã từ lâu, đánh dấu giai đoạn mình phải cầm
giáo (vũ khí) như cách nói của cụ Mết.
- Xác mười tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa
xà nu. Đó là chiến công đầu tiên của dân làng Xô Man khi đã cầm giáo, đánh dấu bước ngoặt trong lịch
sử đấu tranh vũ trang của người dân Tây Nguyên.
- Dân làng tập trung đông đủ quanh đống lửa xà
nu để nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú. Xà nu như chứng kiến ngày vui của cả cộng
đồng và một tương lai đầy hứa hẹn đang mở ra trước mắt người dân Tây Nguyên.
+ Rừng xà nu được miêu tả bằng bút pháp nhân
hoá và luôn trong thế đối sánh với con người :
- Rừng xà nu được nhân hoá ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng. Rừng xà nu lúc này
đúng là người anh hùng của Tây Nguyên, là một nhân vật trong câu truyện.
- Nhiều lần trong tác phẩm, xà nu được đặt
trong thế đối sánh với con người : Máu Tnú được ví như nhựa xà nu ; ngực cụ Mết
căng như một cây xà nu lớn...
- Nếu nói tập thể dân làng Xô Man như một cánh
rừng xà nu thì ở đó có đầy đủ các thế hệ cây xà nu : Cụ Mết là cây xà nu cổ thụ,
tượng trưng cho lịch sử, truyền thống của cả cánh rừng ; Tnú tượng trưng cho những
cây xà nu trên mình mang đầy thương tích nhưng vẫn vươn lên, vẫn chiến thắng
bom đạn của kẻ thù ; Dít tượng trưng cho những cây xà nu đã trưởng thành, đang
bảo vệ dân làng ; bé Heng tượng trưng cho thế hệ cây non, đầy hứa hẹn cho những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời
sau này.
+ Rừng xà nu là hình ảnh tượng trưng cho phẩm
chất và cuộc sống của con người Tây Nguyên :
- Rừng xà nu trong bom đạn của kẻ thù với hình ảnh
hàng vạn cây xà nu không cây nào không bị thương, tượng trưng cho đau thương, uất
hận của dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Sức sống mãnh liệt của rừng xà nu tượng trưng
cho sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên, không bom đạn nào, không kẻ
thù nào có thể tiêu diệt được. Đây cũng là sức sống bất diệt của con người Việt
Nam nói chung.
- Những cây xà nu không chịu khuất mình trong
bóng râm, luôn vươn lên tiếp lấy ánh sáng mặt trời như tượng trưng cho khát vọng
tự do, tinh thần phóng khoáng, cho ý chí vươn lên vì lí tưởng cao đẹp của con
người Tây Nguyên.
- Các thế hệ cây xà nu nối tiếp, thay thế nhau
trong mưa bom bão đạn tượng trưng cho những thế hệ người Tây Nguyên nối tiếp
nhau cầm súng đứng lên chống lại kẻ thù.
à Là một
hình ảnh đẹp, đầy ấn tượng, đầy ám ảnh và rất giàu ý nghĩa.
3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống : Xây dựng những hình ảnh ấn tượng, ám ảnh,
giàu ý nghĩa là một dụng ý nghệ thuật của các nhà văn.
b. Khác
+ Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử :
- Chí
Phèo : Nam Cao sáng tác trước Cách mạng tháng Tám 1945 trong hoàn cảnh đen
tối của xã hội Việt Nam đương thời.
- Rừng xà
nu : Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ
đang ở giai đoạn ác liệt.
+ Do khuynh hướng sáng tác :
- Chí Phèo : Thuộc khuynh
hướng văn học hiện thực phê phán, chưa nhìn thấy lối thoát của người nông dân.
- Rừng xà nu : Thuộc nền
văn học Cách mạng 1945-1975, có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng
phát triển tích cực của đời sống xã hội.
4. Đánh giá khái quát
- Cả hai hình ảnh, với
những nét giống và khác, đều hết sức đặc sắc, giúp nhà văn thể hiện được ý đồ
nghệ thuật và góp phần làm sáng lên nội dung tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Cả hai góp phần làm
phong phú thêm hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng trong văn học dân tộc
và nhân loại.
Đề 4
Phân tích trong thế đối sánh để thấy được sự tương đồng và khác biệt
của hai bài thơ Tràng giang (Huy Cận)
và Chiều tối (Hồ Chí Minh) về vẻ đẹp
cổ điển và hiện đại.
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 tác phẩm, của 2 tác
giả, cùng giai đoạn, cùng thể loại, khác khuynh hướng có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : sự tương đồng và khác biệt về
vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Tràng giang và Chiều tối
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Hồ Chí Minh,
Huy Cận ; hai bài thơ Tràng giang, Chiều tối ; nội dung cần nghị luận
2. Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại
2.1. Vẻ đẹp cổ điển
* Vẻ đẹp cổ điển được hiểu là vẻ đẹp đã trở thành chuẩn mực
trong văn học trung đại. Biểu hiện :
+ Có cảm hứng đặc biệt đối với thiên nhiên
+ Miêu tả thiên nhiên theo kiểu chấm phá, không miêu tả nhiều chi tiết,
cốt ghi lấy linh hồn của cảnh vật
+ Hình ảnh nhân vật trữ tình
trong thơ bình tĩnh, ung dung như giao hoà với trời đất.
* Nói một bài thơ hiện
đại có vẻ đẹp cổ điển là muốn nói bài thơ đó gợi
cho ta nhớ tới vẻ đẹp của những bài thơ cổ ở cách dùng từ, cách sử dụng các thi
liệu, cách tả cảnh (theo lối chấm phá), cách tả tình (tả cảnh ngụ tình)…
2.2. Vẻ đẹp hiện đại : Nói vẻ đẹp hiện đại là nói tới sự sáng tạo, sự cách tân của cá
nhân nhà thơ hiện đại thể hiện ở cách cảm, cách tả, cách sử dụng ngôn từ… không
còn tính qui phạm như trong thơ cổ, tuy họ vẫn kế thừa vẻ đẹp của thơ cổ.
3. Sự tương đồng và khác biệt của hai bài thơ về vẻ đẹp cổ điển và
hiện đại
3.1. Sự tương đồng
a. Vẻ đẹp cổ điển
- Cảm hứng thiên nhiên vào thời điểm buổi chiều
- Thi liệu hầu hết đều có trong thơ cổ
b. Vẻ đẹp hiện đại : Hình ảnh, chi tiết đều là thực chứ không
phải ước lệ như trong thơ cổ
3.2. Sự khác biệt
a. Vẻ đẹp cổ điển
* Tràng giang
+ Tên bài thơ là một từ Hán Việt
+ Cảm hứng đặc biệt với thiên nhiên : Bài thơ tràn ngập cảnh vật thiên nhiên : sông nước, mây, bầu trời,
núi, nắng
+ Hình ảnh quen thuộc của thơ xưa : Dòng sông, con thuyền, đám mây, cánh chim, núi
+ Từ ngữ, hình ảnh mượn của Đường thi (từ đùn mượn của Đỗ Phủ ;
hình ảnh khói hoàng hôn mượn của Thôi
Hiệu)
+ Hình ảnh nhân vật trữ tình đối diện với thiên nhiên, gợi hình ảnh lữ thứ trong thơ cổ Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu
sương sa khách bước dồn (Chiều hôm nhớ nhà - Bà Huyện Thanh Quan)
* Chiều tối
+ Chữ viết :
Nguyên tác chữ Hán
+ Thể thơ : Thất
ngôn tứ tuyệt
+ Thi đề : Giai thì, một đề
tài hấp dẫn của thơ cổ (Nhật kí trong tù
có nhiều bài lấy thi đề là giai thì :
Tảo – Buổi sớm ; Ngọ - Buổi trưa ; Ngọ hậu
– Quá trưa ; Vãn - Chiều hôm ; Mộ - Chiều tối)
+ Bút pháp miêu tả thiên nhiên : Theo kiểu chấm phá, không tả nhiều,
chỉ chọn hai hình ảnh chim, mây ;
không tả cụ thể, chỉ cốt ghi lấy linh hồn của thiên nhiên tạo vật (quyện điểu, cô vân)
+ Nhân vật trữ tình : Phong thái ung dung, tự do, tự tại như giao
hoà với trời đất.
b. Vẻ đẹp hiện đại
* Tràng giang
+ Chữ viết Quốc ngữ
+ Thể thơ tự do
+ Ngôn ngữ được cá thể hoá cao độ dợn dợn, nhỏ
+ Những chi tiết, hình ảnh của cuộc sống đời
thường được đưa vào thơ, trở thành đối tượng thẩm mĩ củi một cành khô.
+ Nghệ thuật miêu tả tâm trạng không cần ngoại cảnh Lòng
quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
+ Sử dụng triệt để nghệ thuật tương phản đối
lập rất hội hoạ, ấn tượng, hiện đại của văn học lãng mạn (cả 4 khổ).
* Chiều tối : Tinh thần hiện đại là tinh thần cách mạng, tinh thần chiến đấu được
thể hiện qua phẩm chất của nhân vật trữ tình.
+ Cảnh : Được nhìn và miêu tả trong sự vận động từ bóng tối đến ánh
sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui, giàu sức sống, từ lạnh lẽo đến ấm nóng (hai câu
đầu tả cảnh thiên nhiên, bức tranh đẹp nhưng buồn, thấm thía cảm giác cô đơn, lạnh
lẽo ; hai câu cuối tả cảnh lao động, sinh hoạt tràn đầy niềm vui, sự ấm nóng của
con người)
+ Nhân vật trữ tình : Ý chí kiên cường, bất khuất, không nao núng
trước mọi gian khổ, luôn lạc quan, tin tưởng, làm chủ tình thế, vượt lên trên
chiến thắng hoàn cảnh, chủ động đón nhận mọi thử thách, khó khăn (không phải là
người tù trên đường đi đày mà là thi sĩ nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên
và là một chiến sĩ tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng).
4. Lí giải nguyên nhân
a. Tương đồng
- Cùng giai đoạn văn học
1930-1945
- Tác giả đều là những
nhà thơ có ý thức kế thừa truyền thống và phát huy hiện đại. Hồ Chí Minh sinh
ra và lớn lên trong môi trường Hán học, học chữ Hán từ nhỏ, đồng thời lại tiếp
xúc với nhiều nền văn minh khác nhau nên rất hiện đại ; Huy Cận sinh ra trong một
gia đình nhà nho, đỗ tú tài toàn phần, đồng thời là một trí thức Tây học, được
tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây.
- Sự kết hợp hai yếu tố
cổ điển, hiện đại là một đặc điểm của phong cách thơ Hồ Chí Minh, Huy Cận (trước1945).
Hai bài thơ đều rất tiêu biểu cho hồn thơ của hai tác giả.
b. Khác biệt
* Về tuổi tác
+ Hồ Chí Minh : Khi viết bài thơ đã hơn 50 tuổi, đã từng trải, dày dạn
kinh nghiệm nên bản lĩnh, bình tĩnh, tự tin, đối mặt và làm chủ hoàn cảnh.
+ Huy Cận : Khi viết bài thơ mới 20 tuổi, chưa trải nghiệm, lại gặp
buổi mất nước nên dễ u buồn, nuối tiếc, bâng khuâng.
* Về khuynh hướng sáng tác
+ Chiều tối : Thuộc văn học
cách mạng 1930-1945, mảng thơ ca trong tù, tác giả là một chiến sĩ cách mạng đã
kinh qua, nắm vững qui luật vận động tất yếu của lịch sử.
+ Tràng giang : Thuộc
phong trào Thơ mới 1932-1945, tác giả
là một thi sĩ đặc biệt có cảm quan vũ trụ, mang trong mình nỗi buồn của cả một
thế hệ các nhà thơ nhiệt tình yêu nước nhưng chưa đủ dũng khí, chưa được giác
ngộ Cách mạng nên chỉ còn biết gửi lòng mình vào thơ ca, vào tình yêu tiếng Việt.
5. Đánh giá khái quát : Sự tương đồng và khác
biệt của hai bài thơ về vẻ đẹp cổ điển và hiện đại cho thấy :
- Đó là một vẻ đẹp của
thơ hiện đại.
- Khẳng định thơ hiện đại
không đoạn tuyệt với thơ truyền thống
- Sự phong phú, đa dạng
của phong cách thơ Việt Nam hiện đại.
Đê 5
Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai nhà thơ
Quang Dũng và Chế Lan Viên qua hai thi phẩm Tây
Tiến và Tiếng hát con tàu ?
Tìm hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh 2 tác phẩm, của 2 tác
giả, cùng giai đoạn, cùng thể loại, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Tình yêu đối với cảnh và người
miền Tây Bắc Tổ quốc
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Tây Tiến và Tiếng hát con tàu
Lập dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Quang Dũng, Chế
Lan Viên ; hai tác phẩm Tây Tiến, Tiếng
hát con tàu ; nội dung cần nghị luận.
2. Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai tác
giả qua hai tác phẩm
2.1. Giống nhau
- Đề tài : Tây Bắc là đề
tài hay, ý nghĩa, hấp dẫn nhiều cây bút một thời.
- Đều thể hiện một cách
xúc động tình cảm sâu đậm đối với cảnh và người Tây Bắc, bao trùm là nỗi nhớ (từ nhớ xuất hiện trong Tây Tiến 4 lần ; bài thơ ban đầu có nhan
đề là Nhớ Tây Tiến ; trong Tiếng hát con tàu 9 lần)
- Đều thể hiện niềm
khao khát được trở về Tây Bắc, được gắn bó vĩnh viễn cùng Tây Bắc Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương (Tiếng hát con tàu), Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa chẳng về (Tây Tiến)
2.2. Khác nhau
a. Tình yêu đối với cảnh
* Tây Tiến : Thể hiện ở việc ca ngợi vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa nên thơ,
trữ tình của núi rừng Tây Bắc.
+ Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội :
- Núi hùng vĩ, hiểm trở Dốc
lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây súng ngửi trời, Ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống
- Rừng hoang dã, huyền bí, dữ dội, ghê sợ chiều chiều oai linh thác gầm thét, đêm đêm cọp trêu người, nước lũ
+ Vẻ đẹp nên thơ, trữ tình :
- Đó là một thế giới huyền ảo, hư thực được tạo nên bởi mưa rừng
sương núi.
- Đó là một thế giới thiên nhiên không phải vô tri mà dường như cũng
có linh hồn hoa về trong đêm hơi, hoa
đong đưa, hồn lau nẻo bến bờ
* Tiếng hát con tàu
+ Thể hiện ở nỗi nhớ có tính chất khái quát Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ, Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu
thương
- Hình ảnh chân thực bản
sương giăng, đèo mây phủ vừa gợi không gian núi rừng, vừa nói được
nét đặc trưng của cảnh sắc miền Tây Bắc. Tất cả như chìm trong sương, trong
mây, một không gian huyền ảo, hư thực, đẹp, thơ mộng và rất ấn tượng.
- Câu thơ thiên về khái quát, diễn tả nỗi nhớ của nhà thơ đối với miền
Tây Bắc. Câu hỏi tu từ không mang ý nghĩa nghi vấn mà đó là một cách khẳng định
nghĩa tình sâu nặng đối với miền đất mình đã từng đi qua, đã từng sống, gắn bó.
+ Thể hiện bằng triết lí Khi ta ở chỉ là
nơi đất ở, Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn. Tác giả đã nêu lên được một
qui luật tâm lí, khi ta ở một vùng đất nào đó, có thể chưa cảm nhận được hết sức
níu kéo của nó, chỉ khi phải rời xa, ta mới cảm nhận được rằng, mảnh đất đó dường
như cũng có tâm hồn, níu kéo con người. Đây là một qui luật tâm lí nói chung.
Riêng với Tây Bắc, xứ thiêng liêng với
rất nhiều ý nghĩa, rất nhiều kỉ niệm, và hơn thế nữa, Tây Bắc còn là ngọn nguồn
của cảm hứng sáng tạo thơ ca Tây Bắc
ơi người là mẹ của hồn thơ thì lại càng có sức níu kéo đặc biệt.
b. Tình yêu đối với người
* Tây Tiến
+ Thể hiện ở việc ca ngợi vẻ đẹp duyên dáng của con người :
- Đó là vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc mang màu sắc xứ lạ phương xa mà rất
đỗi tình tứ của cô gái trong đêm hội đuốc
hoa với trang phục rực rỡ sắc màu xiêm
áo, với cử chỉ điệu bộ e ấp.
- Đó là vóc dáng rất tạo hình
(Nguyễn Tuân) của người chèo thuyền trên con thuyền độc mộc.
+ Thể hiện ở nỗi nhớ da diết những bữa cơm thắm đượm tình quân dân Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu mùa
em thơm nếp xôi
* Tiếng hát con tàu
+ Thể hiện khái quát qua niềm vui sướng được gặp lại nhân dân như nai về suối cũ, cỏ đón giêng hai, chim én gặp
mùa, đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa, chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Những hình ảnh này vừa cho thấy nhân dân vô cùng vĩ đại, vừa thể hiện thái độ,
tình cảm của tác giả đối với nhân dân trân trọng, yêu thương, tin cậy và biết
ơn vô bờ bến.
+ Thể hiện cụ thể ở nỗi nhớ gắn liền với những con người tiêu biểu
cho sự hi sinh, cưu mang, đùm bọc của nhân dân trong kháng chiến : người anh du kích, thằng em liên lạc, mế, em
(cô gái nuôi quân). Mỗi nhân vật gắn với một kỉ niệm cụ thể, trong tình quân
dân có tình yêu đôi lứa, trong tấm tình chung có tấm tình riêng… Tất cả đều thể
hiện tình yêu thương và lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân, con
người Tây Bắc.
3. Lí giải nguyên nhân
a. Giống
- Hoàn cảnh sáng tác :
Hai tác giả đều tham gia kháng chiến chống Pháp, đã từng gắn bó, có nhiều kỉ niệm
với nhiều vùng miền của Tổ quốc (trong đó có Tây Bắc) ; khi sáng tác bài thơ cả
hai đều đang cách xa Tây Bắc (Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, Chế Lan Viên
đang ở Hà Nội), đều rất muốn đến với Tây Bắc, trở lại nơi sâu nặng nghĩa tình
nhưng chưa có điều kiện, đành gửi lòng mình vào thơ ca.
- Hai tác giả đều là những
nhà thơ rất mực tài năng.
b. Khác
* Con người
+ Quang Dũng : Xuất thân là một thanh niên trí thức Hà Nội hào hùng,
hào hoa, là nghệ sĩ đa tài
+ Chế Lan Viên : Con đường thơ trải qua nhiều biến động nhiều bước
ngoặt với những trăn trở tìm tòi không ngừng. Đặc biệt, bài thơ được rút từ Ánh sáng và phù sa - tập thơ thể hiện
hành trình tư tưởng và tâm hồn của người nghệ sĩ đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui, từ chân trời của một người đến
chân trời của mọi người.
* Phong cách thơ
+ Chế Lan Viên : Nổi bật nhất là chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp
trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của thế giới hình ảnh.
+ Quang Dũng : Vừa hồn nhiên, vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa,
phóng khoáng, đậm chất lãng mạn.
4. Đánh
giá khái quát : Tình yêu đối với cảnh và người miền Tây Bắc Tổ quốc của hai
tác giả qua hai tác phẩm :
- Đã khẳng định Tây Bắc
là miền đất thiêng liêng, là đề tài hấp dẫn, là ngọn nguồn của thơ ca nói
riêng, văn học nghệ thuật nói chung một thời.
- Cho thấy sự phong
phú, đa dạng của phong cách thơ Việt Nam hiện đại.
- Giúp người đọc thêm tự
hào, yêu mến, gắn bó và nhận thức được trách nhiệm với Tổ Quốc.
Đề 6
Đối lập là một thủ pháp nghệ thuật đặc
trưng của văn học lãng mạn. Thủ pháp đó đã được thể hiện như thế nào qua đoạn
văn miêu tả cảnh hai chị em Liên đêm đêm thức đợi chuyến tàu (Hai đứa trẻ - Thạch Lam) và đoạn văn
miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân) ? (theo Ngữ văn 11, tập một, NXBGD, HN hiện hành)
Tìm
hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai đoạn trích trong hai tác phẩm, của hai tác
giả, cùng giai đoạn, cùng thể loại, cùng khuynh hướng, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Thủ pháp đối lập đặc trưng cơ bản của văn học
lãng mạn
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh,
so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : đoạn văn miêu tả cảnh hai chị em Liên đêm đêm
thức đợi chuyến tàu (Hai đứa trẻ - Thạch
Lam) và đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân)
Lập
dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Thạch Lam, Nguyễn Tuân ; hai tác
phẩm Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù ;
hai đoạn văn ; vấn đề cần nghị luận
2. Thủ pháp đối lập
-
Là một trong những đặc trưng cơ bản của văn học lãng mạn
-
Tác dụng : làm nổi bật đối tượng được miêu tả, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người
đọc.
3. Thủ pháp đối lập thể hiện trong hai đoạn văn
3.1. Nét chung
-
Đều sử dụng thủ pháp đối lập - đặc trưng của văn học lãng mạn
-
Đều xây dựng những tương quan đối lập
-
Đều thể hiện tấm lòng nhà văn đối với cuộc đời và con người.
-
Đều thể hiện những quan niệm của nhà văn
3.2. Nét riêng
a. Đoạn văn miêu tả cảnh chị em Liên đêm đêm thức
đợi chuyến tàu
a.1. Xây dựng những tương quan đối lập
* Đối lập giữa hoạt động, âm thanh của đoàn tàu
và sự yên tĩnh nơi phố huyện
+ Hoạt động, âm thanh của đoàn tàu :
- Tiếng còi xe lửa từ xa
vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi ; Tiếng còi đã rít lên, tàu
rầm rộ đi tới
-
Tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi
- Tiếng hành khách ồn ào
khe khẽ
Đó là những hoạt động, âm thanh vang động,
mạnh mẽ, riết róng, hối hả. Đây là đoàn tàu của âm thanh và của niềm
vui.
+ Sự yên tĩnh nơi phố huyện :
- Người vắng mãi
- Hàng cơm đóng cửa im lặng như ngoài phố
- Ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng
- Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch
mịch.
- Có miêu tả âm thanh : Trống cầm canh đánh tung lên một tiếng ngắn
khô khan không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối ; tiếng chó cắn ;
hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ thỉnh thoảng từng loạt một... nhưng tất
cả đều rất ngắn, nhỏ, càng tô đậm sự yên tĩnh.
à Âm thanh, hoạt động của đoàn tàu đối lập với sự
yên tĩnh nơi phố huyện. Nó như phá tan sự yên tĩnh trong giây lát.
* Đối lập giữa ánh sáng của đoàn tàu và bóng tối
nơi phố huyện
+ Ánh sáng của đoàn tàu :
-
Ngọn lửa xanh biếc sát mặt đất như ma chơi
-
Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng
xa
-
Các toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống
đường
-
Những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt
-
Cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng
Ánh
sáng rực rỡ của đoàn tàu làm cả phố huyện như bừng lên, náo nức. Đây là đoàn
tàu ánh sáng.
+ Bóng tối nơi phố huyện :
- Hàng cơm đóng cửa tối đen như ngoài phố
- Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê
- Trong một đoạn văn ngắn mà
rất nhiều bóng tối, tối đen, đêm tối, đêm
tối, đêm, bóng tối, đêm khuya, đêm tối, đêm, đầy bóng tối.
- Thiên truyện bắt đầu vào
lúc hoàng hôn, khi bóng tối bắt đầu xâm nhập phố huyện và kết thúc vào lúc 9 giờ
đêm, khi bóng tối đã bao trùm, làm chủ. Đặc biệt câu văn cuối cùng Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên
tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.
- Có miêu tả ánh sáng, ánh
sáng của tự nhiên : Ngàn sao vẫn lấp
lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy, sao
trên trời vẫn lấp lánh ; ánh sáng của cuộc sống con người : hai ba đèn lồng lung lay các bóng dài, bóng
đèn lồng với bóng người đi về, đèn ghi, Liên vặn nhỏ ngọn đèn... nhưng hoặc
quá xa vời, hoặc quá yếu ớt, càng tô đậm bóng tối.
à Ánh sáng của đoàn tàu đối lập với bóng tối dày
đặc, bao trùm phố huyện. Nó như xua tan bóng tối trong giây lát.
* Đối lập giữa sự sang trọng của đoàn tàu và sự
nghèo nàn nơi phố huyện
+ Sự sang trọng của đoàn tàu : những toa hạng trên sang trọng lố
nhố những người ngồi, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng. Đây là đoàn
tàu của sự sang trọng.
+ Sự nghèo nàn nơi phố huyện :
- Chị Tí sửa soạn đồ đạc, đêm
nay chỉ bán được cho hai, ba bác phu uống nước và hút thuốc lào, số tiền kiếm
được rất ít ỏi.
- Bác Siêu gánh hàng đi vào
trong làng, dọn ra rồi lại dọn vào, chẳng bán được cho ai.
- Vợ chồng bác xẩm ngủ gục
trên manh chiếu rách, không hát vì không có khách nghe, chẳng xin được đồng
nào.
- Chị em Liên chẳng bán thêm
được cho ai...
Tất
cả đều cho thấy một cuộc sống nghèo nàn, bán buôn ế ẩm, đơn điệu, tẻ nhạt.
à Sự sang trọng của đoàn tàu đối lập với sự
nghèo nàn nơi phố huyện. Nó như đẩy lùi sự nghèo nàn trong giây lát.
a.2. Thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà
văn
+
Khơi gợi ở nhân vật những nhận thức sâu sắc, thấm thía :
- Nhận thức được đoàn tàu với những hoạt
động, âm thanh mạnh, ánh sáng rực rỡ và sự sang trọng khác hẳn, đối lập, tương phản với hiện thực cuộc sống của phố huyện,
của chị em Liên Con tàu như đã đem theo một chút thế giới khác đi qua.
Thế giới ấy khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của
chị Tý và ánh lửa của bác Siêu... (cách nói nhấn mạnh thế giới khác, thế
giới ấy khác hẳn, khác hẳn).
- Ý thức được con tàu ánh sáng, hạnh phúc ấy
chỉ là mơ ước vời xa Liên nhận thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi.
- Ý
thức được thực tại cuộc sống của
mình vẫn chỉ như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.
Hình ảnh trở đi, trở lại nhiều lần trong tác phẩm, trong tâm trí Liên như một
thứ ám ảnh về hiện thực cuộc đời lắt lay và bế tắc.
+
Đánh thức khao khát ở nhân vật về một thế giới khác, cuộc sống khác tươi sáng,
hạnh phúc : Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ
và huyên náo. Đó là thế giới
của ánh sáng, niềm vui, hạnh phúc đối
lập với thế giới nghèo nàn, yên tĩnh
và đầy bóng tối nơi phố huyện. Do đó càng mơ tưởng, khao khát thoát khỏi
thế giới này để vươn tới thế giới kia.
+
Nhà văn khát khao đổi thay số phận cho con người (đoàn tàu vừa là hình ảnh thực,
vừa là hình ảnh mơ ước, trở thành biểu tượng của ánh sáng và hạnh phúc, là khao
khát đổi thay số phận cho những cảnh đời - bóng tối) nhưng cuối cùng cũng
đành bất lực (Nhưng Liên không nghĩ được lâu, mắt chị nặng dần,
rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch
mịch và đầy bóng tối).
a.3. Thể hiện quan niệm của nhà văn : Con người, dù trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ
nào, cũng không bao giờ mất niềm tin, niềm hi vọng Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống
nghèo khổ hàng ngày của họ.
b. Đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên
quản ngục
b.1. Xây dựng những tương quan đối lập
* Ánh sáng và bóng tối
+
Bóng tối : Đêm khuya ; buồng tối chật hẹp
+ Ánh
sáng : Không khí khói toả như đám cháy
nhà, khói bốc toả, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu ; lửa đóm cháy rừng
rực
à Sự chiến thắng của
ánh sáng đối với bóng tối, không còn bóng tối.
* Cái
cao đẹp, tinh khiết và cái phàm tục, dơ bẩn
+ Cái
cao đẹp, tinh khiết : Một tấm lụa
bạch còn nguyên vẹn lần hồ, mùi thơm của thoi mực, chậu mực
+ Cái
phàm tục, dơ bẩn : Buồng giam ẩm ướt, nền
đất ẩm, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián
à Sự chiến thắng của
cái cao đẹp, tinh khiết đối với cái xấu xa, dơ bẩn, không còn cái xấu, cái
ác.
* Người cho chữ và người xin chữ
+ Người cho chữ - Huấn
Cao :
-
Kẻ tử tù, thể xác mất tự do cổ đeo gông,
chân vướng xiềng
-
Khi cho chữ tư thế ung dung, đường hoàng, đĩnh đạc, làm chủ, sáng tạo ra cái đẹp
dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh
căng trên mảnh ván
-
Sau khi cho chữ khuyên quản ngục : Nên
thay chốn ở, nên tìm về nhà quê mà ở ; hãy
thoát khỏi cái nghề này
+ Người
xin chữ - quản ngục :
-
Kẻ quản lí nhà giam, nắm giữ quyền hành
-
Khi nhận chữ thái độ khúm núm cung
kính, lễ phép trước Huấn Cao, kẻ tử tù.
-
Khi nhận lời khuyên :
/
Thái độ cảm động
/
Hành động vái một vái, chắp tay
/
Lời nói nói một câu, dòng nước mắt rỉ vào
kẽ miệng làm cho nghẹn ngào (vô cùng xúc động) : Kẻ mê muội này xin bái lĩnh (tự nhận mình là kẻ mê muội, đoạn trước tự nhận mình chọn nhầm nghề, tự ý thức được bản thân, tỏ rõ sự ân hận ; Xin bái lĩnh vừa lạy vừa nhận lấy một
cách cung kính, tức là hoàn toàn tâm phục, khẩu phục).
b.2. Thể hiện quan niệm của nhà văn về cái Đẹp,
cái Thiện, về con người
* Quan niệm của nhà văn về cái Đẹp, cái Thiện
+ Cái Đẹp có khả năng qui tụ con người, cái Đẹp có khả năng giúp con người
hiểu, tin tưởng, quí mến nhau :
- Khi trước, họ đối đầu,
giờ đây họ đã xích lại gần nhau, chụm lại với nhau để cùng hướng tới cái Đẹp : Ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm
lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ (chi tiết dự báo ở đoạn trước quản ngục khêu thêm một con bấc).
-
Cùng thưởng thức tác phẩm nghệ thuật, tức là cái Đẹp với ánh nhìn của những người
tri kỉ : Ba người nhìn bức châm rồi lại
nhìn nhau
+ Cái
Đẹp có thể ra đời, nảy sinh từ mảnh đất chết nhưng cái đẹp không thể chung sống
cùng cái xấu, cái ác chỗ này không phải
là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những
cái hoài bão tung hoành của một đời con người.
+ Con
người muốn thưởng thức cái Đẹp trước hết phải là người lương thiện, tức là cái
Đẹp phải gắn với cái Thiện Hãy thoát khỏi
cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ.
+ Cái
Đẹp có khả năng cảm hoá con người Ngục
quan cảm động vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ
vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Đây là chi
tiết dự báo : Quản ngục sẽ thực hiện những lời khuyên của Huấn Cao, sẽ thay chỗ
ở, tìm về nhà quê ; sẽ thoát khỏi cái nghề xấu, nghề ác, giữ thiên lương cho lành vững, không để nhem nhuốc mất cái đời lương thiện.
* Quan niệm của nhà văn về con người : Con người không phải
bao giờ cũng là sản phẩm của hoàn cảnh. Quản ngục là người quản lí nhà tù nhưng
lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, có những sở thích cao quý. Đó là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản
đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ, là mặt
nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ, là con người có tâm điền tốt và thẳng thắn à cách nhìn nhận, đánh
giá con người rất cởi mở (do khuynh hướng, bút pháp lãng mạn chi phối, khác các
nhà văn hiện thực phê phán cùng thời quan niệm con người bao giờ cũng là sản phẩm
của hoàn cảnh).
4. Nguyên nhân
a. Nét chung
-
Hai tác giả đều là nhà văn lãng mạn 1930-1945, tuân thủ nghiêm ngặt qui định
sáng tác của văn học lãng mạn.
-
Cả hai tác phẩm đều mang màu sắc lãng mạn, thể hiện cái nhìn và những ấn tượng
riêng, chủ quan của nhà văn về cuộc sống và con người.
b. Nét riêng
-
Xét về mức độ và những biểu hiện cụ thể, có thể thấy Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là mẫu mực của kiểu sáng tác lãng mạn
còn Hai đứa trẻ của Thạch Lam là sự kết
hợp của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn. Bởi vậy cho nên, tuy tác phẩm có gieo
vào lòng người đọc những cảm xúc bâng khuâng, những tình cảm man mác và gợi trí
tưởng tượng bay bổng nhưng đồng thời cũng đem đến những cảm nhận thấm thía về
hiện thực đời sống con người.
- Do yêu cầu sáng tạo của văn học nghệ thuật
nói chung và do cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn nói riêng.
5. Đánh giá khái quát
-
Khẳng định lại đối lập là một thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học lãng mạn.
Thủ pháp đó đã được thể hiện rõ nét qua hai đoạn văn.
-
Sự vận dụng triệt để thủ pháp đối lập ở hai nhà văn đã tạo nên những trang văn
hay và đẹp, góp phần làm phong phú thêm dòng văn học lãng mạn và làm giàu nền
văn học dân tộc.
Đề 7
Phân tích trong thế đối sánh để thấy được sự giống
và khác nhau giữa hai nhân vật tôi
trong hai truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa (Nguyễn Minh Châu) và Một người Hà
Nội (Nguyễn Khải) (theo Ngữ văn 12
Nâng cao, tập hai, NXBGD, HN hiện hành)
Tìm
hiểu đề
- Dạng đề : Tổng hợp - So sánh hai nhân vật trong hai tác phẩm, của hai tác giả,
cùng giai đoạn, cùng thể loại, có định hướng.
- Đối tượng nghị luận : Sự giống và khác nhau giữa hai nhân vật tôi
- Thao tác : Tổng hợp, phân tích, chứng minh,
so sánh, giải thích…
- Phạm vi dẫn chứng : Hai truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) và Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)
Lập
dàn ý
1. Giới thiệu : Hai tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải ;
hai tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Một người Hà Nội ; vấn đề cần nghị luận
2. Sự giống và khác giữa hai nhân vật tôi trong hai tác phẩm
2.1. Giống
-
Đều đóng vai trò là người kể chuyện
-
Đều là một nhân vật trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện
-
Đều là người lính phục viên chuyển công tác
- Đều
có những quan sát, nhận xét, đánh giá về các nhân vật trong truyện, nhất là
nhân vật chính
-
Đều trải qua một quá trình tự nhận thức.
2.2. Khác
a. Nhân vật tôi
trong Chiếc thuyền ngoài xa - Phùng
* Là người nghệ
sĩ săn tìm cái đẹp, có tâm hồn,
trái tim nhạy cảm
+ Thái độ kiên trì mai phục suốt tuần lễ ở bờ biển để kiếm
tìm cái đẹp.
+ Tâm trạng xúc động, hạnh phúc khi
phát hiện được cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích, một bức
tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ, cái
đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh :
- Vô cùng xúc động trước vẻ đẹp
mà thiên nhiên và cuộc sống đã ban tặng cho con người Bối rối trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào.
- Cảm thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn vì ngỡ mình
vừa khám phá ra chân lí của cái đẹp, cái đẹp có tác dụng thanh lọc tâm hồn con
người, hay nói như ai đó, bản thân cái đẹp
chính là đạo đức. Trong giây phút bối
rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn.
+ Hành động chẳng lựa chọn xê dịch, gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm
liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim.
* Là người tốt, quan
tâm và sẵn sàng hi sinh vì người khác
+ Chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ,
anh kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu,
tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn.
Thế rồi chẳng biết từ bao giờ tôi đã vứt
máy ảnh chạy nhào tới để can ngăn, bênh vực người vợ.
+ Đánh nhau với người chồng để bảo vệ
người vợ và bị thương nhẹ.
+ Cùng với Đẩu thuyết phục người đàn
bà hàng chài li dị, mục đích là để chị không còn bị chồng hành hạ.
* Cách nhìn đời,
nhìn người còn ít thực tế và còn bị chi phối bởi định kiến
+ Cảm thấy không chịu nổi, cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của
Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt quá và phải vén lá màn bước ra khi chứng kiến thái độ
cam chịu, nhẫn nhục đến mù quáng của
người đàn bà hàng chài Quý toà bắt tội
con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.
+ Quan niệm những người đã từng đi
lính Nguỵ thì rất tàn bạo, thể hiện qua câu hỏi : Lão ta trước hồi bảy nhăm
có đi lính nguỵ không ? (vì đã từng chứng kiến người chồng rút trong người
chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa đánh vợ).
+ Bất bình không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được khi chị cho biết Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lại xách
tôi ra để đánh.
* Trải qua quá trình tự nhận thức
+ Về
Đẩu : Trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy
suy nghĩ, một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng
biển.
+ Về
người đàn bà hàng chài : Tình thương con
cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời
hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài.
+ Về
bản thân : Ngộ ra mối quan hệ
giữa nghệ thuật và cuộc đời.
à Phùng là nhân vật tư tưởng. Qua nhân vật, Nguyễn
Minh Châu phát biểu quan niệm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, về
chủ nghĩa nhân đạo chân chính.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
+ Vừa là người kể chuyện, vừa là một
nhân vật trực tiếp tham gia vào câu chuyện; là người lính phục viên ; làm phóng
viên nhiếp ảnh ; là người hoàn toàn xa lạ với người đàn bà hàng chài nên thái độ,
tình cảm, nhận xét về chị hoàn toàn khách quan và công bằng.
+ Đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt
(chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ và câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở
toà án huyện) để từ đó nhân vật có điều kiện ngộ ra mối quan hệ giữa nghệ thuật
và cuộc đời : Nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời.
+ Khắc sâu những nhận thức sâu sắc, thấm
thía của nhân vật bằng chi tiết cuối cùng của tác phẩm khi ngắm kĩ, nhìn lâu hơn bức ảnh mình chụp.
+ Giọng văn nhỏ nhẹ, thấm thía, triết
lí rất phù hợp với quá trình tự nhận thức của nhân vật.
b. Nhân vật tôi
trong Một người Hà Nội (Khải)
* Là người chứng kiến và tham gia vào nhiều chặng
đường lịch sử của dân tộc
+ Năm 1954, với tư cách là một anh bộ
đội Cụ Hồ từ chiến khu Việt Bắc trở về tiếp quản thủ đô.
+ Sau 1954, trong thời kì cải tạo tư sản,
khôi phục kinh tế miền Bắc, có những cảm nhận về những việc được và chưa được của
chính phủ.
+ 1965, thời kì kháng chiến chống Mĩ,
tiếp tục đi bộ đội, sống những năm tháng đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất đỗi
hào hùng của dân tộc.
+ 1975, vui mừng trước đại thắng mùa
xuân.
+ Trong thời kì đổi mới, có bao chiêm
nghiệm, suy tư về lẽ đời ; về giai tầng
thượng lưu của xã hội làm chuẩn cho mọi giá trị :
- Sau 1975 : Là bọn lính, là giai cấp lính, cái mùi lính
tráng thâm nhiễm vào mọi nơi, mọi chỗ, quan hệ kiểu lính, vui chơi kiểu lính,
ăn nói kiểu lính, văn chương cũng là một mùi lính.
- Sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm (1990) : Tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn... Bây
giờ là thời các giám đốc công ti, các tổng giám đốc công ti, các cố vấn, chuyên
viên kinh tế thật, giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả
xã hội.
à Lịch sử thay đổi, xã hội thay đổi, con người
thay đổi, mọi chuẩn mực của xã hội cũng đổi thay.
* Là người từng trải, quan sát sắc sảo, suy
nghĩ sâu sắc
+ Về cô Hiền : Trải qua quá trình tự
nhận thức, từ hiểu sai đến hiểu đúng, thể hiện cái nhìn đa diện, nhiều chiều,
sâu sắc và khách quan.
- Lúc đầu nghi ngại, không muốn dính líu vì đinh ninh cô Hiền là tư sản.
- Sau đó, qua một thời gian
dài (1955-1990) gặp gỡ, tiếp xúc, quan sát, nhân vật tôi dần hiểu và thầm đồng tình với cô Hiền về mọi việc.
- Cuối cùng khâm phục, ngưỡng
mộ, tự hào, ca ngợi : Cô vẫn là người của
hôm nay, một người Hà Nội của hôm nay, thuần tuý Hà Nội không pha trộn ; bà già
vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá ; một hạt bụi vàng của Hà Nội.
+ Về Hà Nội so với thành phố Sài Gòn,
Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn ; (năm 1990) Hà Nội đã sống lại phần xác, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn
nghe những người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường
là đủ rõ.
+ Về con người Hà Nội (so với người
dân Sài Gòn) là những con người có nhiều phẩm chất tốt đẹp, tuy nhiên, một bộ
phận người Hà Nội do bị cuốn vào cuộc sống xô bồ, vụ lợi thời kinh tế thị trường
trở nên thiếu lịch thiệp, nhã nhặn.
* Là người giàu tình cảm
+ Gắn bó thiết tha với vận mệnh của đất
nước qua các giai đoạn, các thời kì lịch sử Nước được độc lập vui quá cô nhỉ...
+ Trân trọng những giá trị văn hoá cổ
truyền của dân tộc : Rất xúc động trước hình ảnh cô Hiền, một bà già ngoài 70
tuổi đang lau đánh bát thuỷ tiên ; thầm nuối tiếc một thú chơi tao nhã, thú
chơi hoa thuỷ tiên của người Hà Nội đang dần bị mất đi trong thời buổi kinh tế
thị trường ; thầm lo ngại cho lối cư xử thiếu văn hoá, lễ độ của một bộ phận
người Hà Nội…
+ Yêu mến, cảm phục nhân dân mình sống
một đời bình dị mà toả sáng nhân cách cao cả : Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà
bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng !
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn
+ Vừa là người kể chuyện, vừa là một
nhân vật trực tiếp tham gia vào câu chuyện, quan hệ là cháu họ xa với nhân vật
chính, cô Hiền, một người Hà Nội. Do
đó điểm nhìn trần thuật chân thật và khách quan.
+ Yếu tố tự truyện rất đậm khiến câu
chuyện trở nên chân thật, hấp dẫn, có tính đối thoại dân chủ với người đọc.
+ Đặt nhân vật vào nhiều hoàn cảnh,
tình huống gặp gỡ với các nhân vật khác, ứng với từng giai đoạn, thời kì lịch sử
và được kể trong từng đoạn (7 đoạn). Đó cũng chính là quá trình tự nhận thức của
nhân vật.
+ Giọng văn vừa vui đùa, khôi hài, vừa
khôn ngoan, trải đời, rất phù hợp với tính cách của nhân vật.
3. Lí giải nguyên
nhân
a. Giống
- Hai tác giả đều sinh trước 1945 (1930), đều vào bộ
đội năm 1950, đều là những nhà văn trưởng thành trong quân đội qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, sau 1975 tiếp tục sáng tác với nhiều đóng
góp, sáng tạo mới, do đó có thể nói đều rất từng trải. Sự từng trải đó thể hiện
rõ trong việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật (của một nhân vật trong câu chuyện)
; chọn ngôi kể (ngôi thứ nhất) ; giọng văn giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều
chiêm nghiệm (của Nguyễn Khải), giản dị mà sâu sắc, thấm thía, nhiều dư
vị (của Nguyễn Minh Châu).
- Về vị trí, cả hai nhà văn đều được đánh giá rất
cao : Nguyễn Khải thuộc số những cây bút hàng đầu của văn xuôi Việt Nam từ
sau Cách mạng Tám 1945. Hành trình sáng tác của Nguyễn Khải tiêu biểu cho quá
trình vận động của văn học dân tộc hơn nửa thế kỉ qua ; Nguyễn Minh Châu
đã trở thành một trong những người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn
học nước nhà từ sau năm 1975. Điều đó thể hiện rõ ở hai tác phẩm, trong đó
có việc xây dựng thành công hai nhân vật tôi.
- Hai tác phẩm đều thuộc giai đoạn sáng tác sau
1975 quan tâm tới số phận cá nhân trong cuộc sống đời thường : Sau 1978,
sáng tác của Nguyễn Khải ngả dần sang cảm hứng triết luận và có sự quan tâm đến
số phận cá nhân trong cuộc sống đời thường ; từ đầu thập kỉ tám mươi
Nguyễn Minh Châu chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và
triết lí nhân sinh. Do đó, trong hai tác phẩm, hai nhà văn đã xây dựng hai
nhân vật tôi để thông qua đó gián tiếp phát biểu những quan niệm
về con người ; về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống ; về chủ nghĩa nhân
đạo chân chính...
b. Khác
- Do yêu cầu sáng tạo của văn học nghệ thuật nói
chung
- Do cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn nói riêng.
4. Đánh giá khái quát
-
Với hai nhân vật tôi, hai tác phẩm đã
có một điểm nhìn trần thuật hết sức khách quan, chân thật, đúng đắn, sâu sắc
góp phần không nhỏ vào thành công của hai tác phẩm, khẳng định tên tuổi, vị trí
của nhà văn.
-
Xây dựng thành công hai nhân vật tôi
là đóng góp của hai nhà văn vào hệ thống nhân vật đặc sắc của nền văn học dân tộc.
--------------------
0 nhận xét:
Đăng nhận xét