RÈN KỸ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC TRONG THẾ ĐỐI
SÁNH
CHO HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong rất nhiều mục tiêu của môn Ngữ Văn trong nhà
trường phổ thông, mục tiêu cơ bản là
giúp học sinh có khả năng đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Để đạt được mục
tiêu ấy, rèn luyện kỹ năng làm văn cho học sinh là một khâu rất quan trọng. Đó
là là một quá trình đầy lao tâm khổ tứ, nó cần công phu, tâm huyết và sự kiên
trì bền bỉ của các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy.
Để giúp học
sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn chương, nghĩa là giúp
các em có được một tư duy tinh nhạy, một tâm hồn xúc cảm dạt dào, và hơn hết là
một năng lực cảm thụ sắc sảo với khả năng khái quát, tổng hợp vấn đề sâu sắc và
khả năng trình bày vấn đề một cách sáng rõ, mạch lạc, hấp dẫn, theo suy nghĩ
của chúng tôi, trong rất nhiều kiểu, dạng đề nghị luận văn học, kiểu đề phân
tích văn học trong thế đối sánh là kiểu đề có thể đáp ứng tốt những năng lực này.
NỘI DUNG
I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CHUNG
1.
Khái niệm:
Trong Tiếng
Việt, các khái niệm So sánh, đối sánh, đối chiếu có một số nét nghĩa tương đồng. Có
lẽ vì vậy, cách sử dụng những thuật ngữ này nhiều khi có sự lẫn lộn.
Ở đây,
chúng tôi không bàn về So sánh như một mĩ từ pháp (Biện pháp tu từ so sánh, học sinh được học trong
chương trình Ngữ văn 8) hay một thao tác lập luận thường gặp trong văn nghị
luận (Thao tác lập luận so sánh – Ngữ Văn 11) mà chúng tôi sẽ bàn về kiểu bài
cảm thụ văn học trong quan hệ đối sánh.
Từ điển
Tiếng Việt (NXB KHXH) đã định nghĩa:
-
Đối sánh (động
từ): so sánh giữa đôi bên
-
Đối chiếu: so sánh cái này với cái kia để từ những chỗ
giống và khác nhau mà biết rõ hơn.
Như vậy kiểu bài cảm
thụ văn học trong quan hệ đối sánh là kiểu bài nghị luận mà đối tượng được đưa
ra cảm thụ không phải là một tác phẩm riêng lẻ mà ít nhất phải từ hai tác phẩm
(hay đoạn trích) trở lên. Đối với kiểu bài này, người làm bài phải biết phân
tích các đối tượng trong thế so sánh để tìm ra những chỗ giống nhau, khác nhau,
từ đó hiểu rõ hơn về cái hay, cái đẹp của các tác phẩm, nét độc đáo trong phong
cách của mỗi tác giả…
Kiểu bài này đòi hỏi người làm bài phải có năng lực
thẩm bình văn chương tinh nhạy, kiến thức lí luận văn học, kiến thức về văn học
sử (tác phẩm và tác giả) phong phú và phải có năng lực khái quát, tổng hợp vấn
đề cao. Phải chăng vì đặc trưng yêu cầu cao như vậy nên tần số xuất hiện của nó
trong các kỳ thi tốt nghiệp thương ít hơn trong các kì thi chọn học giỏi môn
Ngữ văn cấp Tỉnh/Thành phố, Quốc gia và các kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng
khối C, D...?
Trong quá trình rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh
chuyên Văn, nếu chúng ta biết chọn và đưa ra nhiều đề văn thuộc dạng này thì
không chỉ giúp các em củng cố được thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát nâng
cao vấn đề mà còn là cơ hội để các em biết xâu chuỗi và vận dụng một cách nhuần
nhuyễn các kiến thức đã học, phát huy năng lực sáng tạo của các em.
2.
Các dạng đề cảm thụ văn học trong quan hệ đối sánh:
Có rất nhiều dạng đề đối sánh văn học và
đối tượng nghị luận cũng khá rộng. Đó có thể là hai đoạn thơ (văn), hai hình
tượng, hai chi tiết trong tác phẩm, có thể là hai tác phẩm cùng thể loại, cùng
viết về một đề tài hoặc hai tác phẩm của cùng một tác giả; có thể đối sánh
trong quan hệ tượng đồng hoặc khác biệt, quan hệ đồng đại hoặc lịch đại…Tuy
nhiên, dù là đối tượng nào thì chúng tôi nhận thấy kiểu đề đối sánh có thể quy
về hai dạng chính:
2.1. Dạng đề có
định hướng nội dung cần nghị luận:
Ở các đề luận thuộc dạng này, người ra đề đã giới hạn
rõ nội dung cần nghị luận. Chẳng hạn, tham khảo các đề văn sau:
Đề 1: Thế giới tâm hồn của người
lính qua hai đoạn thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm
mơ Hà Nội dáng kiều thơm
(Quang
Dũng – Tây Tiến)
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây
thép gai đâm nát trời chiều
Những
đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng
bồn chồn nhớ mắt người yêu
(Nguyễn
Đình Thi – Đất nước)
Đề 2: Cùng viết về đất nước và nhân dân
trong kháng chiến chống Pháp nhưng ba tác phẩm: Bên kia sông Đuống của
Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Việt Bắc của Tố Hữu là ba
thế giới hình tượng riêng, ba giọng điệu trữ tình riêng, chứa đựng những ký
thác riêng của mỗi hồn thơ.
Anh/ chị
hãy phân tích ba bài thơ trong quan hệ đối sánh để chỉ ra nét riêng của mỗi tác
phẩm.
Đề 3: Từ hai tác
phẩm Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà, hãy phân tích để
chỉ ra nét ổn định và sự vận động trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Ở đề thứ
nhất, nội dung nghị luận được xác định rõ là Vẻ đẹp tâm hồn người lính
Ở đề 2 nội
dung cần nghị luận là nét riêng trong thế
giới hình tượng, giọng điệu trữ tình và kí thác của mỗi hồn thơ được thể hiện
qua ba tác phẩm;
Đề thứ 3
là nét ổn định và sự vận động trong phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
2.2. Dạng đề không định hướng nội
dung cần nghị luận:
Dạng đề
này chỉ trích dẫn đoạn thơ/văn…cần nghị luận mà không đưa ra một chỉ dẫn, gợi
mở nào. Chẳng hạn:
Đề 4: Cảm nhận của anh / chị về hai đoạn thơ sau:
Quê
hương tôi có con sông xanh biếc,
Nước gương trong soi tóc những hàng
tre.
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè,
Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng.”
(Tế Hanh - Nhớ con sông quê hương)
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông
Đuống trôi đi
Một
dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường
kì”
(Hoàng Cầm - Bên kia sông Đuống)
Đề 5: Theo Xuân Diệu, “trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến,
nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu
điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”.
Anh/
chị hãy phân tích những sáng tác trên trong mối quan hệ đối sánh để làm nổi bật
vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm.
Đề 6: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn sau:
Đoạn 1: “Con
sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình[…]những con đò đuôi én thắt
mình dây cổ điển trên dòng trên”
(Nguyễn
Tuân – Người lái đò Sông Đà)
Đoạn 2:“Từ đây,
như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên […]như tấm lòng người dân
Châu Hoa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường – Ai đã đặt tên cho dòng sông ?)
3. Một số gợi ý về cách làm bài:
Ở trên, chúng tôi vừa nêu ra một số dạng đề đối sánh
tiêu biểu và minh họa bằng một số đề thi đã được sử dụng trong một số kỳ thi ở
địa phương và quốc gia.
Dạng đề này yêu cầu học sinh ngoài năng lực cảm nhận tốt
tác phẩm, còn phải có tư duy độc lập, sáng tạo, khả năng phân tích và khái quát
vấn đề một cách sắc sảo. Ngoài ra, các em cũng cần biết huy động và xử lý tốt
một lượng kiến thức vừa đủ về lí luận văn học cũng như văn học sử (tác giả,
giai đoạn văn học…) để bàn luận, lý giải vấn đề.
Dù yêu cầu và đối tượng so sánh là gì thì mục đích
cuối cùng bài văn cần đạt được là phải chỉ ra được sự giống và khác nhau giữa
các đối tượng (đặc biệt là vẻ đẹp độc đáo riêng của từng đối tượng); cắt nghĩa
được nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng ấy, ý nghĩa của nó là gì…
Để đạt được mục đích này, trong quá trình rèn luyện kỹ
năng cho học sinh, chúng ta yêu cầu học sinh phải linh hoạt trong cách xử lý
từng dạng đề với từng yêu cầu và thao tác cụ thể.
3.1. Đối với dạng đề có định hướng nội dung cụ thể:
Học sinh một mặt phải bám sát những chỉ dẫn trong đề,
mặt khác phải biết cách phân lập
đối tượng thành nhiều bình diện khác
nhau để so sánh. Chẳng hạn, đối với tác phẩm văn xuôi thì cần chú ý đến sự
giống, khác nhau trong đề tài, giọng điệu, nhân vật, tình huống, cốt truyện, nghệ
thuật trần thuật; đối với tác phẩm trữ tình thì chú ý đến đặc điểm cái tôi trữ
tình, ngôn ngữ, giọng điệu…Trên cơ sở các tiêu chí này, học sinh sẽ phân tích,
đối chiếu, so sánh để đưa ra ý kiến đánh giá nhận xét của riêng mình về sự sáng
tạo của từng nghệ sĩ.
Về đại thể, có thể
hình dung bố cục của bài văn dạng này sẽ gồm những ý lớn như sau:
I.
Mở bài.
II. Thân bài.
1.
Nêu, phân tích, chứng minh những điểm giống nhau (về hoàn cảnh sáng tác,
thể loại, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật)
3. Phân tích chứng minh những điểm khác
nhau (về hoàn cảnh sáng tác, thể loại, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật)
à Đây là ý trọng tâm.
3. - Khái quát lại vấn đề
- Phân tích
nguyên nhân của sự giống, khác nhau (do kế thừa, sáng tạo, do phong cách nghệ
thuật của nhà văn…)
- Chỉ ra ý
nghĩa (sự đóng góp mới mẻ cho nền VH).
III. Kết bài.
3.2 . Đối với dạng đề không định hướng nội dung cụ thể
Thông thường, hai đối tượng được đưa ra cảm nhận trong
những đề văn dạng này có một mối liên hệ ngầm (tức là một hoặc một vài điểm
tương đồng) nào đó, người viết phải tinh nhạy trong việc xâu chuỗi vấn đề, phát
hiện mối liên hệ ấy để lấy đó làm căn cứ triển khai luận điểm. Chẳng hạn, ở đề
4 (mục 2.2) nét tương đồng ở đây là vẻ đẹp của dòng sông quê hương trong nỗi
nhớ của các tác giả; là tình yêu tha thiết của hai nhà thơ đối với quê hương.
Từ những điểm giống nhau đó, phải hướng dẫn học sinh chỉ ra được nét riêng độc
đáo của mỗi tác giả được thể hiện trong từng đoạn thơ (qua việc sử dụng từ ngữ,
hình ảnh, biện pháp tu từ, ý nghĩa biểu tượng của hình tượng…)
Theo chúng tôi, đối với dạng đề này, chúng ta có thể
hướng dẫn học sinh triển khai vấn đề theo hai cách:
Cách 1: - Lần lượt phân tích từng đối tượng (đoạn
thơ/văn) sau đó rút ra nhận xét về điểm giống và khác nhau giữa hai đối tượng
Ưu điểm của cách làm này là bố cục bài viết
sẽ rõ ràng, học sinh sẽ chủ động trong việc phân tích bởi dạng đề cảm thụ một
đoạn thơ (văn) đã quá quen thuộc với các em.
Nhược điểm của cách giải quyết vấn đề theo
hướng này là dễ tạo ra cảm giác trùng lặp, đơn điệu, nhàm chán, học sinh dễ rơi
vào tình trạng sa đà.
Cách 2: Phân lập các đối tượng thành từng tiêu chí
cụ thể như: Hoàn cảnh sáng tác, thể loại, nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật. Sau khi đã xác định được những yếu tố giống và khác nhau, học sinh tiến hành phân tích chứng minh để làm rõ những luận điểm (tiêu
chí) đã xác lập. Bước cuối cùng là lí giải nguyên nhân, chỉ ra đóng góp của
từng tác giả.
II.
VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN
Những vấn đề lý thuyết nêu trên đã được chúng
tôi vận dụng vào thực tiễn để giải quyết một số đề cụ thể như sau:
Đề 1:
Vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người nghĩa
sĩ Cần Giuộc và người lính Tây Tiến trong hai tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
của Nguyễn Đình Chiểu và “ Tây Tiến” của Quang Dũng.
Đối với đề này, có nhiều hướng triển khai khác nhau, ở
đây, chúng tôi đề xuất các ý như sau:
1)
Phân tích điểm giống và khác nhau giữa hai tác phẩm:
1.1. Điểm giống:
-
Đề tài: Hai tác phẩm cùng viết về những con người đã dám xả thân hi sinh vì đất
nước
-
Hình tượng các nhân vật mang vẻ đẹp đậm chất bi tráng.
-
Cảm hứng: trân trọng, ngợi ca
1.2. Điểm khác:
1.2.1.
Hoàn cảnh sáng tác, nhân vật trữ tình:
- Văn
tế nghĩa sĩ cần Giuộc:
+ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù Nam bộ, sống gắn bó với nhân
dân
miền Nam .
Ông là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX
+ Bài văn tế được viết trong thời kì lịch sử “khổ nhục
nhưng vĩ đại” của dân tộc để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh đồn
Cần Giuộc đêm 16.12.1861.
-
Tây tiến:
+ Quang Dũng là một chiến sĩ trong đoàn quân Tây tiến,
xa Tây Bắc, xa Tây Tiến, nhớ đồng đội mà viết về đồng đội.
1.2.2.
Nét độc đáo của mỗi hình tượng:
- Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là người nông dân
thuần phác, giản dị , quanh năm chỉ biết “ Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”
nhưng có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc,. Họ tự nguyện đứng lên đánh giặc
cứu nước. Trang bị vũ khí vô cùng thô sơ, kinh nghiệm trận mạc ít ỏi nhưng họ
chiến đấu với tinh thần quả cảm và đã hi
sinh anh dũng.
- Hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến là
những thanh niên, học sinh Hà Nội xếp bút nghiên lên đường cứu nước. Cuộc sống
gian khổ, thiếu thốn nhưng họ vẫn giữ được vẻ đẹp rất hào hùng mà cũng rất hào
hoa.
1.2.3.
Nghệ thuật khắc họa:
-
Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc: giọng điệu trang trọng, bi thương, câu văn
biền ngẫu có kết cấu đăng đối, ngôn ngữ giàu hình ảnh và sức biểu cảm với hệ
thống các hình ảnh so sánh ví von, chi tiết chọn lọc đặc sắc…
-
Hình tượng người lính Tây Tiến: Được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn mang đậm
chất bi tráng…
2)
Bàn luận mở rộng:
-
Cùng viết về người lính nhưng với tài năng nghệ thuật riêng các nhà thơ, nhà
văn đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của người lính trong văn học và cho
người đọc một bài học về sự sáng tạo.
- Với bài “ Văn tế…” lần đầu tiên người nông dân áo vải bước
vào văn học với tư cách là người lính, cùng với những tác phẩm khác cùng
đề tài tạo nên vẻ đẹp của người lính trong văn học Trung đại. “ Tây tiến” chính
là sự kế thừa và sáng tạo từ hình ảnh này.
Đề 2:
Theo Xuân Diệu, “trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức
danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu,
Thu ẩm, Thu vịnh”.
Anh/
chị hãy phân tích những sáng tác trên trong mối quan hệ đối sánh để làm nổi bật
vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm.
Đề này khá
quen thuộc trong một số kỳ thi, vì vậy chúng tôi đưa một số gợi ý mang tính
chất tham khảo:
1) Những nét giống nhau:
-
Cả ba bài thơ đều
viết về vẻ đẹp thanh sơ, buồn vắng của mùa thu nông thôn xứ Bắc bằng những nét
chấm phá đơn sơ.
-
Đều thể hiện tâm
trạng ưu thời mẫn thế của thi nhân
2) Những điểm khác nhau:
2.1.
Tâm thế của nhân
vật trữ tình và cảnh sắc mùa thu:
- Thu vịnh (Mùa thu làm thơ):
+
Nhân vật trữ tình là một nhà Nho có tâm hồn thi sĩ đang thả hồn vào cảnh vật
+ Không gian thanh vắng, yên tĩnh của mùa thu
được quan sát từ xa đến gần, từ cao đến thấp với những nét phác thảo đơn sơ (Trời thu à Cần trúc à Nước biếc à Song thưa);
sự yên tĩnh của không gian được tô đậm bằng âm vang của một tiếng chim rót từ
trên cao xuống (Một tiếng trên không
ngỗng nước nào).
+ Thời gian: mơ
hồ, huyền hoặc, không xác định rõ với các hình ảnh trời thu xanh ngắt, nước biếc,
bóng trăng, Mấy chùm trước
giậu hoa năm ngoái…
- Thu
điếu (Mùa thu câu cá)
+
Cảnh được nhìn qua mắt của một ngư ông.
+ Không gian được miêu tả từ thấp đến cao. Tác
giả cũng sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh, đó là âm thanh tiếng cá quẫy vọng lên
từ mặt nước…
- Thu ẩm (Mùa thu uống rượu)
+
Cảnh đêm thu được tái hiện qua mắt nhìn của một túy ông
+ Không gian nơi miền quê yên tĩnh được gợi lên
qua các hình ảnh năm gian nhà cỏ thấp le
te, ngõ tối, đêm sâu, đóm lập lòe, làn ao lóng lánh bóng trăng loe…à Tất cả có sự
nhòe mờ
2.2. Tâm trạng của nhân vật trữ tình:
- Trong Thu
vịnh: mặc cảm xấu hổ với tiền nhân
- Trong Thu
điếu: nỗi suy tư triền miên, sâu lắng trước thời thế
- Trong Thu ẩm:
nỗi buồn cô đơn đến mức tận cùng: Rượu
tiếng răng hay hay chẳng mấy /Độ năm ba chén đã say nhè.
3) Bàn luận:
- Ba bài thơ đã thể hiện rõ tài thơ và tấm lòng của
tác giả
- Thể hiện rõ quy luật sáng tạo của văn chương nghệ
thuật
- Đóng góp có ý nghĩa của Nguyễn Khuyến cho thơ về đề
tài mùa thu.
Đề 3: Tiếng nói tri âm qua hai tác phẩm Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du và Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo.
Đề 4: Tâm sự của Nguyễn Duy qua hai bài thơ Ánh trăng và Đò Lèn
Đề 5: Hình tượng người bà trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt và Đò Lèn của Nguyễn Duy
Đề 6: Đều viết về vẻ đẹp của những dòng sông trên mọi miền
quê hương đất nước nhưng mỗi nhà văn có một khám phá, phát hiện khác nhau.
Từ hai tác phẩm Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên
cho dòng sông, hãy chứng minh.
Đề 7: Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy
Tưởng được thể hiện qua hai tác phẩm Chữ
người tử tù và Vũ Như Tô.
THAY LỜI KẾT:
Trên đây chỉ là những kinh nghiệm mà chúng tôi bước
đầu rút ra trong quá trình tìm tòi, hướng dẫn học sinh rèn luyện. Với đặc điểm
của một trường chuyên tuổi đời còn non trẻ, kinh nghiệm bồi dưỡng chưa có nhiều
và thành tích cũng còn rất khiêm tốn, chúng tôi hy vọng được trao đổi, góp ý và
học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm quý báu từ các trường bạn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét